Sunday, February 9, 2014

Tự Lực văn đoàn

n

Tự Lực văn đoàn là một câu lạc bộ viết văn do Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) khởi xướng và bắt đầu hình thành vào cuối năm 1932, chính thức tuyên bố thành lập vào ngày thứ Sáu, 2 tháng 3 năm 1934 (tuần báo Phong Hóa số 87). Đây là một tổ chức văn học đầu tiên của Việt Nam mang đầy đủ tính chất một hội đoàn sáng tác theo nghĩa hiện đại, và là một tổ chức văn học đầu tiên trong lịch sử văn học của dân tộc Việt do tư nhân chủ xướng, không dính líu đến vua quan, thân hào như các thi xã kiểu cũ (như Tao đàn Nhị thập bát Tú, Tao đàn Chiêu Anh Các, Mặc Vân thi xã), và cũng không phát ngôn cho tiếng nói của quyền lực (như các nhóm Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí,...). Đứng về mặt xã hội, các thành viên trong văn đoàn ấy đều là dân thường, nhưng họ lại tập hợp nhau lại vì một lý tưởng muốn cống hiến cho văn học, thông qua văn học mà đóng góp cho xã hội, và cùng chung sức nhau xã hội hóa hoạt động sáng tác của họ, trong sự vận hành của cơ chế thị trường văn học nghệ thuật đang dấy lên từ Nam ra Bắc thuở bấy giờ .

Trong khoảng 10 năm (1932 - 1942) tồn tại, văn đoàn ấy với những sáng tác văn học, hoạt động báo chí, xuất bản sách, trao giải thưởng, v.v...đã tạo nhiều ảnh hưởng đến văn học và xã hội Việt Nam ở thời kỳ đó.

• Nguyên nhân ra đời

Trong khoảng thời gian sống tại Pháp, ngoài việc học khoa học, Nguyễn Tường Tam còn chuyên tâm nghiên cứu về nghề báo, và ông nhận thấy loại báo trào phúng là khá thích hợp với sở thích của nhiều người. Năm 1930, ông đỗ bằng Cử nhân khoa học, và trở về nước trong bối cảnh "cả xứ Đông Dương như sống trong đêm dài trung cổ. Mọi hình thức đấu tranh vũ trang hầu như bị thực dân Pháp triệt tiêu".
Về ở Hà Nội, để thực hiện ước vọng của mình, Nguyễn Tường Tam nộp đơn xin Sở Báo chí cho phép ra báo Tiếng cười, và chuẩn bị bài vở cho số báo đầu tiên. Tuy nhiên, lần nào hỏi thăm đều nghe người của sở ấy bảo rằng “chờ xét”. Trong thời gian đợi giấy phép ra báo, Nguyễn Tường Tam xin dạy học tại trường tư thục Thăng Long. Tại đây, ông quen biết với hai đồng nghiệp là Trần Khánh Giư (Khái Hưng) và Phạm Hữu Ninh.
Khi biết ông Ninh cùng Nguyễn Xuân Mai đang làm chủ tờ tuần báo Phong Hóa, đã ra 13 số báo, nhưng sắp sửa phải đình bản vì không có gì mới mẻ để bạn đọc chú ý. Chớp thời cơ, Nguyễn Tường Tam ngỏ ý mua lại. Sau đó, ông Tam, với vai trò Giám đốc (Directeur) tờ báo, liền cùng với một nhóm anh em bạn hữu gồm có: Khái Hưng (Trần Khánh Giư, vốn là cây bút cốn cán giữ nhiêu mục quan trọng trên báo Phong Hóa suốt từ số 1 cho đến số 14)[8], Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), tạo thành một ban biên tập hoàn toàn mới”[6].
Bắt đầu ngày 22 tháng 09 năm 1932, báo Phong Hóa số 14 ra 8 trang khổ lớn, và được đánh giá là "một quả bom nổ giữa làng báo".
Sau khi tờ báo "bán chạy như tôm tươi ngay từ những số đầu"[10], Nguyễn Tường Tam cùng với các cộng sự quyết định thành lập một bút nhóm lấy tên là Tự Lực văn đoàn. Một thành viên của bút nhóm là Tú Mỡ kể lại (lược trích):

...Tất cả những gì dự định cho báo "Tiếng cười", anh Tam dồn cả cho báo "Phong Hóa mới"...Báo làm ăn phát đạt, và mặc dù anh em làm việc quên mình, không vụ lợi, nhưng anh Tam vẫn phải chạy tiền khá chật vật để mỗi tuần kịp trả đủ cho nhà in và tiền mua giấy...Cuối năm đó (1932), tính sổ mới ngã ngữa ra: lời lãi chia theo số vốn, phần lớn chui vào két của nhà tư sản...Anh Tam bèn họp bàn với anh em, và đồng ý với nhau rằng: Không thể chơi với nhà tư sản được. Quyết định thành lập “Tự lực văn đoàn” trên nguyên tắc làm ăn dựa vào sức mình, theo tinh thần anh em một nhà; tổ chức không quá 10 người nên không phải xin phép Nhà nước; không cần có văn bản điều lệ: lấy lòng tin nhau làm cốt, chỉ nêu ra trong nội bộ mục đích tôn chỉ, anh em tự giác tuân theo...
Về sau, khi điều kiện đã tốt hơn để mở rộng tầm hoạt động, bút nhóm ấy mới chính thức tuyên bố thành lập, với một tôn chỉ gồm 10 điều trên tuần báo Phong Hóa số 87 ra ngày thứ Sáu, 2 tháng 3 năm 1934.
Theo GS. Nguyễn Văn Xuân, mặc dù Tự Lực văn đoàn "ra đời trong thời kỳ khó khăn mọi mặt: nghèo tiền, không thế lực, tinh thần quốc gia dao động, thực dân Pháp chèn ép đủ mặt; vậy mà các thành viên vẫn hợp tác được để dẫn dắt nhau ngang nhiên tiến bộ"...

• Tuyên ngôn và tôn chỉ
Trong tuần báo Phong Hóa số 87 ra ngày 2 tháng 3 năm 1934, có in lời tuyên ngôn và tôn chỉ (10 điều) của Tự Lực văn đoàn như sau:

Tuyên ngôn
Tự lực văn đoàn họp những người đồng chí trong văn giới; người trong đoàn đối với nhau cốt có liên lạc về tinh thần, cùng nhau theo đuổi một tôn chỉ, hết sứ giúp nhau để đạt được mục đích chung, hết sức che chở nhau trong những công cuộc có tính cách văn chương.
Người trong Văn đoàn có quyền để dưới tên mình chữ Tự Lực văn đoàn và bao nhiêu tác phẩm của mình đều được Văn đoàn nhận và đặt dấu hiệu.
Những sách của người ngoài, hoặc đã xuất bản, hoặc còn bản thảo, gửi đến Văn đoàn xét, nếu hai phần ba người trong Văn đoàn có mặt ở Hội đồng xét là có giá trị và hợp với tôn chỉ thì sẽ nhận đặt dấu hiệu của Đoàn và sẽ tùy sứ cổ động giúp. Tự Lực văn đoàn không phải là một hội buôn xuất bản sách.
Sau này nếu có thể được, Văn đoàn sẽ đặt giải thưởng gọi là giải thưởng Tự Lực văn đoàn để thưởng những tác phẩm có giá trị và hợp với tôn chỉ của Đoàn.

Tôn chi
1. Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi: mục đích là để làm giàu thêm văn sản trong nước.
2. Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội. Chú ý làm cho người và xã hội ngày một hay hơn.
3. Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những sách có tính cách bình dân và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân.
4. Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách An Nam.
5. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có trí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ.
6. Ca tụng những nết hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả qúi phái.
7. Trọng tự do cá nhân.
8. Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa.
9. Đem phương pháp khoa học thái tây[13] ứng dụng vào văn chương Việt Nam.
10. Theo một trong 9 điều này cũng được miễn là đừng trái ngược với những điều khác.
Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, qua 10 điều ấy, có thể thấy văn đoàn đã đề ra 4 chủ trương lớn, đó là:
•Về văn học: Nhắm tới 3 mục tiêu lớn:
-1. Dấy lên một phong trào sáng tác làm cho văn học Việt Nam vốn đang nghèo nàn có cơ hưng thịnh.
-2. Xây dựng một nền văn chương tiếng Việt đại chúng.
-3. Tiếp thu phương pháp sáng tác của châu Âu hiện đại để hiện đại hóa văn học dân tộc.
Về xã hội: Đề cao chủ nghĩa bình dân và bồi đắp lòng yêu nước trên cơ sở lấy tầng lớp bình dân làm nền tảng.
Về tư tưởng:Vạch trần tính chất lỗi thời của những tàn dư Nho giáo đang ngự trị trong xã hội
Về con người: Lấy việc giải phóng cá nhân làm trung tâm điểm của mọi sáng tác.

• Tổ chức
Cơ quan ngôn luận của Tự Lực văn đoàn là tuần báo Phong Hóa (kể từ số 14 ra ngày 22 tháng 9 năm 1932, số cuối 190 ra ngày 5 tháng 6 năm 1936), và từ năm 1935 thêm tuần báo Ngày nay (số đầu tiên ra ngày 30 tháng 1 năm 1935, số cuối 224 ra ngày 7 tháng 9 năm 1940). Ngoài ra, văn đoàn còn có nhà xuất bản Đời Nay để tự xuất bản sách của mình .
Trụ sở chính của văn đoàn đặt ở nhà số 80 phố Quán Thánh, Hà Nội. Đây vừa là tòa soạn báo Phong Hóa, Ngày Nay; vừa là trụ sở nhà xuất bản Đời Nay. Ban đầu, bút nhóm chỉ có 6 thành viên, gồm:
– Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), là Trưởng văn đoàn và cũng là Giám đốc báo Phong Hóa.
– Khái Hưng
– Hoàng Đạo
– Thế Lữ
– Thạch Lam
– Tú Mỡ
Về sau, kết nạp thêm Xuân Diệu.
Bên cạnh đó còn có những cộng sự viên khác (không ở trong tòa soạn báo Phong Hóa và Tự Lực văn đoàn), gồm:
Các nhà văn, nhà thơ: Huy Cận, Trọng Lang, Đoàn Phú Tứ, Đỗ Đức Thu, Trần Tiêu, Thanh Tịnh, Phạm Cao Củng, Nguyễn Khắc Hiếu, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Đinh Hùng, Nguyễn Công Hoan, Vi Huyền Đắc, Nguyễn Tường Bách, v.v...
Các họa sĩ: Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Cát Tường, Lê Minh Đức (tạo ra nhân vật Xã Xệ), v.v...

Một số văn nghệ sĩ kể trên, về sau đều thành danh, ít nhiều là nhờ người đứng đầu văn đoàn là Nguyễn Tường Tam. Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, thì người đứng đầu ấy vốn là người có tài, có tâm và có tầm nhìn, biết đoàn kết cả nhóm trong một ý hướng chung, lại biết khơi gợi đúng thiên hướng của từng người mỗi tác giả trở thành một cây bút chuyên biệt nổi danh về một thể loại. Như Khái Hưng được ông khuyến khích chuyển từ lối viết luận thuyết trên các báo Văn học tạp chí, Duy tân (dưới bút danh Bán Than) sang viết tiểu thuyết; Tú Mỡ được ông gợi ý chuyên làm thơ trào phúng; Trọng Lang được ông cổ vũ đi hẳn vào phóng sự; còn Thế Lữ dưới con mắt Nguyễn Tường Tam phải là người mở đầu cho "thơ mới", v.v...
Diễn biến[sửa | sửa mã nguồn]

• Diễn biến của Tự lực văn đoàn có thể chia thành 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1932 - 1936
Mặc dù Tự Lực văn đoàn chính thức tuyên bố thành lập vào tháng 3 năm 1934, song nó đã hình thành từ cuối năm 1932. Với cơ quan ngôn luận là báo Phong Hóa, họ làm một cuộc cải cách xã hội bằng tiếng cười trào phúng. Họ đem những thói hư tật xấu và những hành vi đáng cười của những nhân vật “tai to mặt lớn” trong nhiều giới ra chế giễu. Nhân vật Lý Toét, Xã Xệ và Bang Bạnh như là ba kiểu người điển hình của mọi thứ tệ lậu này. Bên cạnh đó, các khuynh hướng sáng tác (như khuynh hướng lãng mạn, khuynh hướng hiện thực,...) đều đã có mặt, nhưng khuynh hướng luận đề chống phong kiến là nổi trội hơn cả[18]. Theo GS. Dương Quảng Hàm, tác phẩm tiêu biểu nhất của khuynh hướng này là cuốn Đoạn tuyệt (1934) và Lạnh lùng (1936).

Làm báo Phong Hóa được khoảng 2 năm, Nguyễn Tường Tam bèn xin phép ra thêm tờ tuần báo Ngày Nay (số đầu tiên ra ngày 30 tháng 1 năm 1935) nhưng để Nguyễn Tường Cẩm (là một công chức, anh của ông Tam) đứng tên. Ban đầu, báo không có mục trào phúng, nhưng có mục "phóng sự điều tra với nhiều hình ảnh có tính cách mỹ thuật". Đây là sự mới lạ đối với độc giả lúc bấy giờ, nên rất được hoan nghênh. Nhưng vì ấn loát tốn kém quá, lại phải chia sức ra, nên báo Ngày Nay chỉ ra được 13 số thì phải đình bản.
Sau khi báo Phong Hóa bị đóng cửa (số cuối 190 ra ngày 5 tháng 6 năm 1936), báo Ngày Nay lại ra thay. Tục bản, báo chỉ có hai phần chính là “tiểu thuyết” và “trông tìm”, không có phần “trào phúng”, vì nó là nguyên nhân khiến tờ Phong Hóa bị rút giấy phép. Tuy nhiên, đến cuối năm ấy (1936), vì thời cuộc thay đổi (nổ ra phong trào lập kiến nghị để chờ đón Ủy ban điều tra của Chính phủ bình dân Pháp phái sang), khiến Tự Lực văn đoàn lại cho mở mục trào phúng nhưng giảm bớt so với trước, gọi là “cười nửa miệng” thôi .

Giai đoạn 1937 - 1942
Hiệu kỳ Hội Ánh sáng (1937 - 1945).
Bước sang những năm 1937- 1939, tờ Ngày Nay lại trở thành một cơ quan chính trị hẳn hoi, với những bài xã luận đanh thép của Hoàng Đạo, đề cập đến những vấn đề cấp thiết của thời đại. Ngoài ra, đây cũng là nơi Tự Lực văn đoàn cổ động cho phong trào Ánh Sáng (mục đích cải tạo nếp sống ở nông thôn) của họ...Văn đoàn ở giai đoạn này, cũng đã mở rộng cửa ra hơn, để đón nhận thêm nhiều văn nghệ sĩ có tài khác như: Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, Thanh Tịnh, Xuân Diệu, Huy Cận, v.v.... Sau số 224 (ra ngày 07 tháng 09 năm 1940), báo Ngày Nay bị nhà cầm quyền đóng cửa (chưa biết lý do).

Hầu hết những khuynh hướng văn học đã có đều được văn đoàn tiếp tục ở giai đoạn này, tuy nhiên tiếng cười hài hước không còn tràn lan như trước. Có phần nổi đậm là khuynh hướng nghiên về những người nghèo khổ. Ngoài ra cũng có một khuynh hướng mới, bắt đầu hé lộ những miền khuất tối, không thể nhận biết của cái “tôi”, kể cả trên quá trình phân thân, tự hủy (như trong Bướm trắng, 1939; Băn khoăn, 1942). Không những thế, như trên đã nói, từ lĩnh vực văn chương, văn đoàn còn chuyển sang hoạt động xã hội. Sau nhiều năm tháng chuẩn bị, ngày 16 tháng 8 năm 1937, Hội Ánh sáng của Tự Lực văn đoàn ra đời. Đây là một hình thức tổ chức “cải cách xã hội một cách êm thấm trong phạm vi luật pháp” (lời Hoàng Đạo), nhằm tập họp đông đảo những người có từ tâm trong nước, cùng nhau góp một phần công của để triệt phá dần những nhà ổ chuột, xây dựng những ngôi nhà kiểu mới hợp vệ sinh giá rẻ cho dân nghèo, đồng thời tiến hành các hoạt động cứu tế xã hội, v.v...

Từ khoảng năm 1937, không khí của Chiến tranh thế giới thứ hai tác động mạnh đến đời sống xã hội Việt Nam. Năm 1940, khi Nhật vào Đông Dương, Nguyễn Tường Tam và một số thành viên trong nhóm chuyển sang hoạt động chính trị...
Cuối năm 1940, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí...bị thực dân Pháp bắt giam rồi đầy lên Sơn La... Năm 1942, Nguyễn Tường Tam trốn sang Trung Quốc, Thạch Lam mất vì bệnh lao phổi tại Hà Nội, v.v...Theo một số nhà nghiên cứu văn học sử thì Tự Lực văn đoàn đã cơ bản tan rã từ khi ấy (tự giải tán vì "sẩy đàn tan nghé", nhưng không tuyên bố).
Tóm lại, theo GS. Phạm Thế Ngũ, thì:

Sự đàn áp thẳng tay của nhà cầm quyền Pháp nhiều năm (nhất là sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930) đã gây một không khí hoang mang kinh sợ, hay buồn bã hoài nghi khắp nơi. Họ muốn trấn an, muốn lấy lại lòng tin nên cho mở hội chợ ở Sài Gòn, ở Hà Nội...để người ta vui, người ta quên...Trong không khí ấy, nhóm Tự Lực văn đoàn tung ra cái tôn chỉ “cười”, và chủ nghĩa "lãng mạn lý tưởng xinh tươi" sau đó thật là hợp thời...

Đến năm 1936 và những năm tiếp theo, thì cuộc diện đã khác. Ở Pháp, đảng Xã hội lên cầm quyền, mở đầu cho những hoạt động chính trị diễn ra công khai ở Đông Dương. Theo đó, nhóm văn đoàn ấy cũng xoay qua hoạt động chính trị, xã hội...Cây bút Hoàng Đạo thì tố cáo những thối nát của chính quyền, những lầm than của dân chúng dưới chế độ thực dân phong kiến. Nguyễn Tường Tam thì chủ xướng chiến dịch Ánh Sáng, chống nhà ổ chuột, cổ động cho phong trào truyền bá quốc ngữ, v.v...Đối với nhóm Tự Lực văn đoàn, thì những gì "xinh tươi ngày trước" đã phai nhiều...

• Những tác phẩm nổi bật
Khá nhiều tác phẩm của văn đoàn đã gây được tiếng vang, ở đây chỉ nêu ra một số như:
Hồn bướm mơ tiên xuất bản ngày 27 tháng 5 năm 1933. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Khái Hưng và cũng là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của văn đoàn .
Nửa chừng xuân (tiểu thuyết, 1934) của Khái Hưng.
Thừa tự (tiểu thuyết, 1938) của Khái Hưng.
Đoạn tuyệt (tiểu thuyết, 1934), Lạnh lùng (tiểu thuyết, 1936), Đôi bạn (tiểu thuyết, 1937). Cả 3 quyển đều của Nhất Linh.
Con đường sáng (tiểu thuyết, 1940) của Hoàng Đạo.
Mấy vần thơ (tập thơ, 1935) của Thế Lữ.
Gió đầu mùa (tập truyện ngắn, 1937) của Thạch Lam.
Giòng nước ngược' (thơ trào phúng, 1943) của Tú Mỡ.
Thơ thơ (tập thơ, 1938) của Xuân Diệu, v.v...

• Giải thưởng Tự Lực văn đoàn
Không chỉ sáng tác văn học, Tự Lực văn đoàn còn trao các giải thưởng cho các nhà văn không thuộc nhóm. Giải thưởng đã được xét trao cả thảy ba lần: 1935, 1937 và 1939. Đây là một giải thưởng uy tín, một bảo chứng danh giá cho sự nghiệp văn chương của những người đoạt giải: Ðỗ Ðức Thu, Phan Văn Dật, Vi Huyền Đắc, Nguyên Hồng, Anh Thơ, Tế Hanh...[27]. Thoạt nhìn đã có thể thấy, đây là một giải thưởng có tính phát hiện cao. Hầu hết các tác phẩm được giải là tác phẩm đầu tay, và nhiều tác phẩm trong số đó lúc ra mắt qua giải thưởng Tự lực văn đoàn, như Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Bức tranh quê của Anh Thơ... đã thành “hiện tượng” trong đời sống văn học. Và thật thú vị, những nhà văn chủ trì Tự lực văn đoàn, vốn được coi thuộc khuynh hướng lãng mạn, lại chọn biểu dương những cây bút gần như ngược hẳn với mình, đậm chất hiện thực xã hội, nhiều khi đến gay gắt. Có thể điều này rất quan trọng: giải thưởng do đó khêu gợi và quy tụ cả một dàn đồng ca rộn rã phong phú đa dạng như chưa từng có những tài năng mới, trẻ, góp phần tạo nên “cả một thời đại mới trong văn học” như cách nói của Hoài Thanh.

• Đánh giá
Dưới đây là một vài nhận xét khái quát, mang tính tham khảo, của:
GS. Hoàng Xuân Hãn:
Nhóm Tự Lực văn đoàn không phải là nhóm duy nhất, nhưng là nhóm quan trọng nhất và là nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại.
GS. Dương Quảng Hàm:
Công việc của Tự Lực văn đoàn đã có ảnh hưởng về đường xã hội và đường văn học.
-Về đường xã hội, cái biệt tài trào phúng của phái ấy, cả trong thơ văn và trong các bức hí họa, đã làm rõ cái dở, cái rởm, cái buồn cười, cái giả dối trong các hủ tục, thiên kiến của ta. Tuy nhiên, phái ấy không khỏi có những điều thiên lệch. Có những tục không đáng công kích mà cũng công kích...
- Về đường văn học, phái ấy đã gây nên cái phong trào “thơ mới” và làm cho thể văn tiểu thuyết được đắc thắng. Phái ấy lại có công trong việc làm cho văn quốc ngữ trở nên sáng sủa, bình giản, khiến cho nhiều người thích đọc....
GS. Nguyễn Huệ Chi:
Trong lĩnh vực văn học, đóng góp của Tự lực văn đoàn có vai trò đáng kể. Chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam hiện đại thực sự hình thành và ghi được những thành tựu cơ bản nhất thông qua hoạt động của văn đoàn này. Phải bắt đầu từ đây, thơ và tiểu thuyết mới đi vào thế giới bên trong nhân vật, giúp người đọc khám phá trực diện vẻ đẹp của cái “tôi” và tạo ra cách đọc “phản tỉnh”, tức là nhìn sâu vào cõi lòng mình.
Về hình thức, tiểu thuyết của văn đoàn đã vượt ra khỏi phạm trù văn học “giao thời” (30 năm đầu thế kỷ 20), có cấu trúc mới mẻ, trong đó quy luật tâm lý thay cho lối trần thuật một giọng của người kể chuyện. Câu văn trong văn xuôi đã trở nên trong sáng, chuẩn mực, giàu khả năng biểu cảm tuy có lúc còn đơn điệu. Cùng với việc đào sâu tâm lý nhân vật, thiên nhiên cũng trở thành một đối tượng thẩm mỹ.....
Sách Ngữ văn lớp 11 (tập 1):
Từ khoảng năm 1930, đã thực sự xuất hiện trào lưu lãng mạn chủ nghĩa với những thành tựu nổi bật được kết tinh ở Thơ mới, tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn, truyện ngắn trữ tình của Thạch Lam (trong Tự lực văn đoàn), Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Nguyễn Tuân...Trong khoảng thời gian ấy, nhóm Tự lực văn đoàn với những tác phẩm xuất sắc của Nhất Linh, Khái Hưng… đã đẩy cuộc cách tân tiểu thuyết lên một bước mới: cách dựng truyện tự nhiên, tổ chức kết cấu linh hoạt, tính cách nhân vật được xem là trung tâm của tác phẩm, đời sống của nhân vật được chú trọng và được phân tích, diễn tả tinh vi. Ngôn ngữ tiểu thuyết Tự lực văn đoàn giản dị, trong sáng, có khả năng diển tả chính xác, tinh tế từ ý nghĩ, tình cảm, cảm xúc đến cảm giác mong manh, mơ hồ nhất, tuy về sau lại trở thành kiểu cách, sáo mòn.

1 comment :


 Tục ngữ & Thành ngữ

  1. ĂN TRÔNG NỒI, NGỒI TRÔNG HƯỚNG
  2. Kín cổng cao tường
  3. Khôn cho người ta rái, dại cho người ta thương
  4. Kẻ tám lạng người nửa cân
  5. Hồn xiêu phách lạc
  6. Hàng tôm hàng cá
  7. Há miệng mắc quai
  8. Há miệng chờ sung
  9. Gửi trứng cho ác
  10. Giàu làm kép hẹp làm đơn