Kính thưa quý thính giả,
Một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ, nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh, bà để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Bà được xem là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam và cũng là một trong những nhà thơ độc đáo có một không hai trong lịch sử văn học. Trong tiết mục "Danh nhân nước Việt" tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài "Nữ sĩ Hồ Xuân Hương" của Việt Thái qua giọng đọc của Tam Thanh để chấm dứt chương trình phát thanh tối hôm nay.
Tám cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông.
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới.
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân ai biết xuân chăng tá!
Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không.
Đó là 8 câu trong bài thơ Đánh Đu của bà Hồ Xuân Hương.
Hồ Xuân Hương sinh năm 1772 tại làng Quỳnh Đôi. Thân phụ của bà là ông Hồ Phi Diễn. Hồ Xuân Hương xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, nhưng hoàn cảnh cuộc sống đã giúp bà có điều kiện sống gần gũi với những người lao động nghèo và tiếp xúc với nhiều phụ nữ bị áp bức trong xã hội.
Thuở nhỏ, bà là một phụ nữ thông minh, có học thức, giao du rộng rãi, có nhiều bạn bè trong làng thơ văn. Bà lấy chồng muộn, nhưng hai lần lập gia đình đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. Bà là người từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước.
Giới thơ văn cho rằng, bà là một nữ sĩ nổi tiếng qua những bài thơ chữ Nôm, với cách tả cảnh, tả tình, cách dùng từ ngữ... trong thơ của bà có một không hai, vô cùng sống động và đặc sắc. Bà giàu tình cảm, nhưng vì số phận hẩm hiu, thân thế long đong, nên trong thơ của bà thường có ý lẳng lơ, hoặc có giọng mỉa mai, nhưng bài nào cũng chứa chan tình cảm. Nhà thơ Xuân Diệu đánh giá thơ của bà là "điểm cao của nguồn thơ nôm na bình dân".
Bà có khoảng năm mươi bài thơ chữ Nôm, viết theo thể Ðường luật, được thu thập thành Xuân Hương thi tập, được xem là tập thơ xuất sắc trên văn đàn Việt Nam. Ngoài tập thơ này, bà còn có tập thơ Lưu Hương ký mang bút danh của bà, do ông Trần Thanh Mại tìm thấy vào năm 1964, gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm. Với một nghệ thuật điêu luyện, bà viết về tình yêu gia đình, đất nước và những mối tình của bà với những người bạn trai.
Có thế nói "Sự nghiệp của Hồ Xuân Hương là ngọn hải đăng" như lời đề tựa thứ hai của tuyển tập Hồ Xuân Hương bằng tiếng Pháp.
Bà còn lập ra Cổ Nguyệt Đường (tức thi quán, nơi đàm đạo thơ văn) bên cạnh Hồ Tây lộng gió, thu hút nhiều văn nhân, bạn bè lui tới như Chiêu Hổ, Trần Hầu, Tốn Phong Thị, Phạm Quí Thích, Nguyễn Huy Tự, Mai Sơn Phủ, Cư Đình, Trần Quang Tĩnh, Trần Phúc Hiển,... và có cả thi hào Nguyễn Du.
Ông Cự Đình khi giới thiệu bà với ông Tốn Phong Thị đã viết: "Hồ Xuân Hương học rộng mà thuần thục, dùng chữ ít mà đầy đủ, từ mới lạ mà đẹp đẽ, thơ đúng phép mà văn hoa, thực là một bậc tài nữ".
Tốn Phong Thị cũng bình về thơ của bà: "Tuy đầy vẻ gió trăng mây mưa, nhưng đều tự đáy lòng mà phát ra, biểu hiện thành lời nói, lại đều đúng với cái ý nghĩa: xuất phát từ mối tình mà biết dừng lại trên lễ nghĩa".
Các tác phẩm của Hồ Xuân Hương là các bài thơ chữ Nôm theo phong cách thất ngôn bát cú và thất ngôn tứ tuyệt khá đặc sắc, ngoài ra còn có một vài bài thơ viết bằng chữ Hán.
Trong bối cảnh chế độ phong kiến đang dần đi đến hồi kết, và cũng là lúc văn học Việt Nam chuyển sang giai đoạn mà chủ nghĩa nhân đạo xuất hiện trong thơ ca, bà nhận thức được rằng, số phận người phụ nữ đương thời đang bị chà đạp bởi những tư tưởng "trọng nam khinh nữ", "tam tòng tứ đức" của chế độ phong kiến. Do vậy, một trong những đề tài chính trong thơ của bà là viết về phụ nữ. Điều này khiến cho bà trở thành một hiện tượng đặc biệt trong làng văn học thời bấy giờ.
Ngoài ra, các đề tài khác nổi bật lên trong thơ của bà bao gồm chuyện chăn gối của nam nữ, đả kích chế độ đương thời và phê phán những thói hư tật xấu của những kẻ đạo đức giả, gồm cả giới tăng lữ và những ông thầy đồ.
Năm 1962, ông Trần Văn Giáp đã công bố 5 bài thơ chữ Hán của bà trên báo Văn nghệ viết về vịnh Hạ Long. Đến năm 1983, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã dịch và đặt tên cho 5 bài thơ này: Độ Hoa Phong, Hải ốc trù, Nhãn phóng thanh, Trạo ca thanh, Thủy vân hương và công bố trong bài Hồ Xuân Hương với vịnh Hạ Long, đăng trên tập san Khoa học xã hội tại Paris vào năm1984.
Bà mất năm 1822 tại Thăng Long. Hấu hết các thành phố ở Việt Nam đều có con đường hay một con phố mang tên Hồ Xuân Hương.
* * *
Bất cứ ai trải qua dưới mái trường của thời Việt Nam Cộng Hòa đều biết đến nữ sĩ Hồ Xuân Hương và đều thuộc một số bài thơ rất dí dỏm của bà. Chẳng hạn như bài vịnh Quả Mít gồm 4 câu như sau:
Thân em như quả mít trên cây,
Da nó xù xì, múi nó dày.
Quân tử có thương thì cắm cọc,
Xin đừng mân mó, nhựa ra tay.
Khác với Hồng Hà nữ sĩ – Đoàn Thị Điểm, văn phong của Hồ Xuân Hương không mang tính trang nghiêm, vì thế dễ được giới bình dân đón nhận. Hơn thế nữa, nhờ xử dụng từ ngữ mang tính châm chọc và chế giễu nên càng được nhiều người ưa thích.
Chính vì thế, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã có một chỗ đứng riêng cho mình trên văn đàn VN. Đáng tiếc là nữ sĩ tài hoa này đã ra đi từ hai thế kỷ trước, nếu không thì với bối cảnh xã hội VN đang băng hoại về đạo đức hiện nay, nữ sĩ Hồ Xuân Hương có lẽ đã có thêm hàng trăm bài thơ viết về thời đại cộng sản mà dân gian đang mỉa mai là "thời đồ giả"!
Việt Thái
No comments :
Post a Comment