Saturday, October 15, 2016

Mặt khuất của con người: Cái dâm và cái ác trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng

pic
Thụy Khuê
Tả chân Vũ Trọng Phụng

Vũ Trọng Phụng viết nhiều thể loại: từ phóng sự đến truyện ngắn, kịch, tiểu thuyết, tiểu luận bút chiến… và trong loại nào ông cũng để lại những tác phẩm giá trị.

Thập niên 1930-1940, trên diễn đàn văn học đất Bắc, có hai khuynh hướng báo chí đối lập nhau: một bên là Tự Lực văn đoàn với Phong Hoá, Ngày Nay và một bên là những tờ báo chống lại Tự Lực văn đoàn, như Tiểu thuyết thứ bẩy, Hữu Ích, Phổ Thông bán nguyệt san thuộc nhà xuất bản Tân Dân của Vũ Đình Long, với các nhà văn như Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Lan Khai, Tchya Đái Đức Tuấn, Trương Tửu…

Sự đối lập nghề nghiệp này tạo ra những cuộc bút chiến nẩy lửa hoặc những cách phê bình độc địa nhau trên mặt báo. Ngày nay đọc lại những bài tranh luận này, chúng ta thấy nổi bật khía cạnh hiềm tị cạnh tranh nghề nghiệp nhiều là hơn đối lập tư tưởng.

Chỉ riêng trường hợp đối chất giữa Khái Hưng-Nhất Linh và Vũ Trọng Phụng là có nguyên do sâu xa hơn, đó là sự đối lập tư tưởng và phong cách văn học giữa Khái Hưng-Nhất Linh và Vũ Trọng Phụng.

Sự bất đồng xẩy ra trên một số nét rõ ràng: Khái Hưng chê Vũ trọng Phụng chỉ nhìn thấy cái xấu trong con người và Nhất Linh chê vũ Trọng Phụng dâm ô. Vũ Trọng Phụng phản bác rằng mình chỉ nói lên sự thực.

Lập luận của Khái Hưng và Nhất Linh điển hình cho lập luận chung của những người đả phá Vũ Trọng Phụng, kéo dài trong nhiều năm, từ thập niên 30 thế kỷ trước, qua những ngòi bút như Lê Thanh, Phan Trần Chúc…, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại cũng chê Số đỏ (sau này ông có sửa lại lập trường trong hồi ký), đến những nhà nghiên cứu sau này như Phạm Thế Ngũ, chịu ảnh hưởng Vũ Ngọc Phan cũng giữ khoảng cách, không đề cập tới Số đỏ, một tác phẩm gây “scandale” mà những người “đứng đắn” không thể bảo kê được.

Thái độ này rất dễ hiểu, bởi Vũ Trọng Phụng đi ra ngoài hệ tư tưởng chính thống của văn học đương thời.

Thập niên 30-40, trên văn đàn Việt Nam, có hai hệ tư tưởng nòng cốt: thứ nhất, đề cao cái đẹp, văn hay, phong cách lãng mạn, trong văn chương Tự lực văn đoàn, văn chương Nguyễn Tuân và Thơ Mới. Thứ nhì, vạch trần sự xấu xa của xã hội cũ trong các tác phẩm Tự Lực văn đoàn, vạch trần sự bóc lột của giai cấp giầu có, thống trị, phía các nhà văn hiện thực như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng và các nhà phóng sự của Tam Lang, Nguyễn Đình Lạp, Hoàng Đạo …

Trong toàn bộ hệ tư tưởng chính thống đó, con người được mô tả qua một khuôn thẩm mỹ cổ điển, một khuôn mẫu đạo đức sẵn có, văn chương phản ảnh cái hay, cái đẹp, chống lại cái xấu, cái cặn bã của xã hội.

Vũ Trọng Phụng đơn phương đi ra ngoài quỹ đạo chính thống đó: ông không nhìn con người tiên thiên như một thực thể tốt hoặc xấu. Ông không viết văn hay theo thẩm mỹ lãng mạn, mà ông theo dõi hành vi của mỗi cá nhân để xem họ hành động và phản ứng như thế nào trước tình huống.

Là nhà báo, Vũ Trọng Phụng có phong cách nhà báo, tức là nói thẳng, nói thực. Lối viết của ông luôn luôn có tính điều tra phóng sự, ghi chép tất cả, cả những lời sống sượng, thô tục của con người hàng ngày trong các ngõ hẻm, trong các khu tăm tối của bạc lận, tiền gian, của đĩ điếm, của ma cô, của đủ mọi hạng người sang giầu, dung tục.

Vũ Trọng Phụng dám đưa ra những vấn đề cấm kỵ nhất của xã hội Việt Nam thập niên 30: đó là vấn đề tính dục, vấn đề đồng tình luyến ái, vấn đề mãi dâm… Và ông không ngại đi vào những vùng thâm u nhất của xã hội để điều tra sự thật: xã hội cờ bạc, xã hội lấy Tây, xã hội làm điếm, xã hội con sen…

Những phóng sự của Vũ Trọng Phụng không chỉ có giá trị nhất thời, tức là vẽ nên những tệ đoan xã hội của thời Pháp thuộc, mà còn có giá trị cho mọi thời, bởi những sự thật mà ông phanh phui những năm 30 của thế kỷ trước, vẫn còn là hiện thực của hôm nay và hôm qua: chỉ cần đổi tên Kỹ nghệ lấy Tây thành Kỹ nghệ lấy Mỹ, là chúng ta rơi vào hoàn cảnh phụ nữ thời 54 -75 ở miền Nam, hoặc thành Kỹ nghệ lấy Đại hàn là có điều kiện của những phụ nữ bán thân cho ngoại quốc hôm nay, nhiều khi còn phải chịu số phận biệt xứ.

Vũ Trọng Phụng là nhà văn đã vẽ nên Con người toàn diện (L’ homme total) theo nghiã của Sartre, nghiã là ông nhìn thấy toàn diện mọi khía cạnh của con người, của mọi hạng người, như trường hợp Nguyễn Du.

Tính chất trào phúng càng đưa ông đi xa hơn nữa, khiến ông có thể nhìn những đau thương qua lăng kính trào lộng, tạo thêm một sức mạnh, một sức đớn đau chua chát mới mà các tác giả cùng thời chưa đạt được, ví dụ:

“Cái giường của một me tây cũng như cái dùi khui của một thầy cảnh sát, cũng như cái búa của bác thợ rèn, cũng như cái cổ của một ông nghị viên Việt Nam. Trong cái kỹ nghệ lấy Tây, thợ chỉ làm việc trên giường” (Kỹ nghệ lấy Tây, tuyển tập Vũ Trọng Phụng trang 568).

Những so sánh có tính cách khiêu khích ấy làm đỏ mặt một cộng đồng chuộng nền nếp trật tự, có trên, có dưới, có sang, có hèn, nhưng chúng phản ảnh sự thực chua cay nhất.

Hoặc:

“Bốn mươi năm trước đây, người Việt Nam ngoài sự lo tưới nước luộc lợn vào xác người chết lại còn muốn người chết phải cảm động bởi những câu khóc lóc khéo của kẻ sống ở sau chiếc quan tài! Nhà nào sợ vì lẽ gì tang gia bối rối mà không đủ lời lẽ thảm thiết thì mời bà Đội Chóp giúp hộ một … miệng. Bà Đội Chóp, một người có lòng từ thiện, đã vui vẻ mà khóc, tươi cười mà khóc, khóc một cách chu đáo, mà lại không tính tiền, nghiã là khóc ga-tuýt vậy.

Ối ai ơi là ai ơi….” (Kỹ nghệ lấy Tây, sđd, trang 571).

Còn gì thật hơn và trào lộng hơn về tục khóc mướn của dân ta.

Vì thế những phóng sự của Vũ Trọng Phụng không chỉ là bức ảnh chụp đúng thời điểm mà nhà báo săn tin bước qua một cảnh quan nào đó, nó còn dựng lên cả một hậu cảnh, một dĩ vãng, một tập tục, mà những người trong cảnh đã sống, đã trải qua.

Phóng sự của Vũ Trọng Phụng khác với phóng sự của Tam Lang, Nguyễn Đình Lạp, Hoàng Đạo… và những người cùng thời, vì họ mới chỉ chụp được những bức tranh thời sự để đưa lên mặt báo. Và ngày nay, tính thời sự ấy đã mất, những hiện tượng ấy đã chấm dứt, ảnh của họ chỉ còn là những giá trị tư liệu của một thời, trong khi phóng sự của Vũ Trọng Phụng, là những cuốn phim sống động mà con người mọi thời có thể soi mình, thấy lại mình.

Bức tranh phóng sự của Vũ Trọng Phụng là bức tranh nổi và sinh động chụp năm 1930 nhưng vẫn còn đang tươi rói những giọt máu hôm nay trong một bối cảnh hoàn toàn khác, trong khi phóng sự của các nhà báo khác là những bức ảnh phai màu về một thời quá khứ.

Cái chợ buôn người của Hà thành thời Vũ Trọng Phụng và cái chợ buôn nhân công hôm nay ở Hà Nội dường như không khác nhau là mấy, cùng một không khí:

“Cả đám người ấy, ngồi tản mạn thành từng tốp nho nhỏ. Trẻ với trẻ, già vời già, đàn bà với đàn bà, con trai với con trai. Mụ già đưa người thì không ngồi, chỉ đi đi lại lại, nhìn người này, nhìn người nọ, như một viên võ quan lúc diễu binh và mấp máy cái mồm, không hiểu là đếm hay đánh giá những kẻ chịu lụy mụ. Ngưòi ta nói chuyện rầm rì huyên thuyên lên, cái đó đã cố nhiên. Người ta lại chửi nhau, vui vẻ bắt chấy cho nhau cắn đỡ đói”, và Hà thành ngày ấy cũng chẳng khác Hà Nội và Sài gòn bây giờ là bao:

“Nó [Hà thành] đã cất tiếng gọi dân quê bỏ những nơi đồng khô cỏ héo đến đây để chết đói một lần thứ hai sau khi bỏ cửa bỏ nhà. Nó đã làm cho giá con người phải ngang hàng với giá loài vật: Nó đã làm cho một bọn trẻ đực vào nhà Hoả Lò và một bọn trẻ cái làm nghề mãi dâm!” (Cơm thày cơm cô, sđd, trang 588-589).

Chỉ cần đổi Cơm thày cơm cô thành Kiếp ô sin là chúng ta ngay thân phận của những cô gái quê lên tỉnh đi ở, hôm nay:

“Tiên nhân cha con ranh con! Chưa chi đã giở ngay những thói trộm cắp! Liễn thịt còn ba mươi hai miếng mà dám thọc ngay đũa vào ăn vụng mất ba miếng! Bà đã đếm rồi bà mới cất đi, dễ mày tưởng bà không biết đấy à?” (Cơm thày cơm cô, sđd, trang 598).

Chân dung những mụ ma cô già hoá cáo, ngày ấy với ngày nay nào có khác gì:

“Con mẹ chủ tôi thì ăn mặc đến nực cười. Chân thì đi giày đầm, đầu thì để tóc đuôi gà, mà quần áo thì là quần áo khách! Trông thấy anh tây đen nào con mụ cũng liếc mắt đưa tình, giở trò gạ gẫm ngay thôi. Nó cứ bắt tôi lẽo đẽo theo sau y như là muốn bắt tôi học nghề làm đĩ ấy! Mà cái má nó đã răn reo, nó lại trát phấn bự khắp cả, thành thử trông như mặt ngáo ộp, thế mà cũng có anh bắt nhân ngãi với nó! Ấy thế rồi, cha tiên nhân năm đời mười đời nhà nó!… Chính nó làm cho tôi mất tân! Anh ơi, tôi lúc ấy mới có 13 tuổi đầu mà nó nhét giẻ vào mồm tôi, giữ hai chân tôi, cho thằng oẳn cứ việc hiếp lấy hiếp để! (…)

Không chịu nhận tiền đền, tôi ra phố kể lể, khóc mếu máo với một ông đội xếp… Chưa kịp nói rõ đầu đuôi, nó đã chạy ra đứng án ngữ trước mặt mình rồi nói tiếng Tây với ông đội xếp không biết những gì mà thấy ông ấy đổi giọng mắng tôi những là đừng có vu oan giá họa, chứng cớ không có mà đi kiện láo thì rồi tù mọt gông! Thế là tôi đâm ra sợ, không dám nghĩ đến chuyện lên bót nữa, đành phải nhận hai đồng bạc tiền đền. Ba hôm sau, tôi khỏi, nó quen mui, lại bắt tôi tiếp khách nữa! Tiên sư bố nó, thật là giời quả báo nên mấy hôm sau nó bị xe ô tô đâm phải, gẫy mẹ nó ngay một tay…” (Cơm thầy cơm cô, sđd, trang 569).

Đúng là một mụ trùm tú bà mà chúng ta có thể tìm thấy trên màn ảnh hay ở ngoài đời, bất cứ trong xó xỉnh xã hội đen nào trên trái đất, hôm nay, từ Praha, Hồng Kông, Manille, Bombay, New York… hay Sài Gòn, Hà Nội, mà nạn buôn người chưa bao giờ gián đoạn trên thế giới.

Tính phổ quát trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng không chỉ dừng lại ở những trang phóng sự, mà bao trùm lên toàn thể tác phẩm của ông như một con đường tư tưởng xuyên sâu vào sự lầm than của kiếp người, của sự người bóc lột người, ở bất cứ thời nào, nơi nào, càng sâu sắc và khốc liệt hơn dưới những chế độ độc tài mà pháp luật dừng lại ở vùng ngoại cảnh.

Từ năm 2000, khi Lại Nguyên Ân và Piter Zinoman giới thiệu thêm một số tác phẩm đã đăng báo nhưng chưa in thành sách của Vũ Trọng Phụng, trên hai cuốn Vẽ nhọ bôi hề và Chống nạng lên đường (nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2004), và bốn năm sau, Lại Nguyên Ân cho in cuốn Nghiên cứu văn bản Giống tố (nxb Tri thức 2008), chúng ta có thêm một số tư liệu quý nữa về Vũ Trọng Phụng và có thể nói, trên bình diện tìm lại và nghiên cứu văn bản, Lại Nguyên Ân và Peter Zinoman đã hoàn thành những công trình đáng kể về Vũ Trọng Phụng.

Nhờ những văn bản mới tìm ra này, nhất là những truyện ngắn in trên báo năm 1930-31, (sáng tác lúc Vũ Trọng Phụng mới 18, 19 tuổi, với bút pháp già dặn và từng trải), chúng ta có thể biết được khuynh hướng tư tưởng của Vũ Trọng Phụng ngay từ những sáng tác đầu tay. Tư tưởng ấy có thể chia làm hai hướng: hướng về tính dục qua các truyện ngắn: Thủ đoạn,(1/1931), Cô Mai thưởng xuân (3/1931)… và hướng về tính bất nhân của con người, trong các truyện Một cái chết (3/31), Bà lão loà (4/31), Chống nạng lên đường (7/31), nhất là truyện ngắn Bộ răng vàng (in năm 1936) là một kiệt tác.

Vấn đề tính dục

Vấn đề tính dục trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đã làm ngứa mắt cả một thành phần trí thức “nghiêm chỉnh” và ông bị kết án là dâm ô.

Ngày nay đọc lại những tác phẩm, hay những đoạn văn bị kết án, chúng ta không còn có gì phải ngượng, phải nhăn mặt như các “cụ” thời trước, vì những “sự” ấy chẳng có gì đáng kể, so với lối viết bây giờ.

Vũ Trọng Phụng không phải là một tác giả dâm ô, kích dục, ông chỉ là nhà văn đầu tiên dám đề cập đến vấn đề xác thịt và tính dục của con người mà điều kiện viết của thập niên 30 cho là những cấm kỵ.

Vấn đề tính dục được đề ra lần đầu tiên trong tiểu thuyết Việt Nam, năm 1931, qua hai truyện ngắn Thủ đoạn và Cô Mai thưởng xuân.

Cô Mai thưởng xuân là sự chơi chữ của nhà văn: chữ thưởng rất rõ ràng và cũng rất mờ ám, chữ xuân hai nghĩa. Truyện viết về sự đòi hỏi và thoả mãn tính dục giữa Mai, cô chủ dạy thì và thằng nhỏ đầy tớ, trong những đêm rút bất ngày Tết. Thằng nhỏ đã sớm nhìn thấy sức quyến rũ và sự kích lệ của cô chủ đang độ xuân thì, nó không ngần ngại, vụng trộm tìm cách “đáp ứng” nhu cầu của cô chủ để nhận tiền thưởng. Cô Mai thưởng xuân viết khá kín đáo cho nên người đọc khó nhận ra ý nghiã tính dục nằm sau ngôn ngữ.

Cùng năm ấy Vũ Trọng Phụng bị ra toà vì một đoản thiên tiểu thuyết (theo sự suy luận của Lại Nguyên Ân) đó là truyện Thủ đoạn, in trên Ngọ báo đầu năm 1931.

Thủ đoạn viết về một người thư ký, muốn phục vụ chủ hết mình, cưới một người vợ trước kia là gái điếm, ép nàng phải hiến thân cho chủ, và chính anh ta cũng đã hiến mình cho chủ nhiều lần. Không chấp nhận sự nhục nhã, người vợ tự tử.

Ngoài yếu tố tính dục, yếu tố quan trọng thứ hai trong hai truyện ngắn này là quan hệ chủ tớ: là sự nô lệ của con người nhưng dưới hình thức cộng hưởng khoái lạc. Truyện Thủ đoạn đi xa hơn, dám đề cập đến vấn đề đồng tính trong một xã hội lễ giáo mà tất cả vần đề xác thịt đều bị coi là dâm loạn.

Cô Mai và Thủ đoạn báo hiệu tính cách điều tra của Vũ Trọng Phụng về bản chất dục tính của con người xuyên qua triết học Freud, mà vài năm sau trong truyện dài Làm đĩ, ông đào sâu hơn vào tiềm thức một cô gái điếm và vào những nhân vật như Thị Mịch trong Giông tố, Bà Phó Đoan trong Số đỏ…

Sự bất nhân của con người

Một tín hiệu đi đôi với khuynh hướng thứ hai trong tư tưởng Vũ Trọng Phụng: sự bất nhân trong con người. Tháng tám năm 1931, ông dịch truyện ngắn Fou (Điên) của Guy de Maupassant. Trong đó Maupassant ghi lại hồi ức một ông toà điên, mặt tiền xử tử những tội phạm, mặt hậu chính ông toà là kẻ giết người.

Truyện của Maupassant đã ảnh hưởng đến Camus khi viết La chute (Sa đoạ), và chắc chắn đã củng cố thêm cho cái nhìn Vũ Trọng Phụng về cái ác của con người. Những nhân vật trong những truyện ngắn như Một cái chết, Bà lão loà, Chống nạng lên đường, Vũ đã mô tả sự bất nhân trong nhân tính như một hiện thực không xoá bỏ được. Và muốn tìm hiểu sự lầm than, chết chóc thì phải lật cái bộ mặt bất nhân ấy lên, phô ra ánh sáng.

Một cái chết viết về một thầy cai thu thuế chợ, goá vợ, bao nhiêu tình thương dành cho đức con duy nhất là thằng Hợp, nhưng khi hành nghề, thày cai lại không tiếc tay đánh đập hành hạ những người không đủ tiền đóng thuế chợ. Một đêm đông mưa gió, có người ăn mày đói rét đến gõ cửa, thầy cai tàn nhẫn đuổi đi. Sáng hôm sau, Thằng Hợp nhìn thấy xác người ăn mày chết cóng nằm bên miệng cống ruồi bu nhặng bám, đứa bé nhạy cảm giàu lòng thương người đã không chịu nổi cái nhìn thê thảm ấy và nó đã uống dấm thanh trộn thuốc phiện tự tử.

Bà lão loà là một bà cụ 76 tuổi, trọ nhờ gia đình người cháu, trước đã chịu ơn bà. Ngày xưa khi còn giàu có, bà cụ đã cứu bao nhiêu mạng sống. Nay bà gặp cảnh khốn cùng thì không còn nhờ cậy được ai. Hàng ngày phải ra gốc đa ngồi ăn xin. Một hôm trời bão, muốn cho bà cụ không về nữa, để bớt một miệng ăn, người vợ cản chồng không cho sai con đi đón bà cụ loà về. Hôm sau người cháu thấy xác bà cụ bị quạ mổ nát nhừ trong ruộng.

Những bi kịch trên đây cho thấy ngòi bút Vũ Trọng Phụng luôn luôn đi đến tận cùng, đến dút điểm về con người, về thiện cũng như về ác.

Truyện Bộ răng vàng đưa ra một thực tại kinh hoàng. Sau khi cha chết, đứa con trai “xử lý” bộ răng vàng của bố:

“Nó nhìn sau nhìn trước, lắng tai nghe kỹ, thấy vợ chồng anh mình đã ngáy mới yên trí, rón rén đến bên giường bố chết, lật cái chăn ra.

Để một tay giữ trên đôi mắt người đã qua đời, còn một tay nó bóp lấy hàm, cố vành cho được. Thấy hơi răn rắn, nó liền dùng hết sức, cố vành mồm kẻ chết lấy ra được bộ răng vàng. Như người sốt rét phải chậu nước lạnh dội vào mình, nó bỗng run lên bần bật. Bộ răng vàng rơi lăn xuống đất nó cũng không kịp nhặt, vì khi nhìn lại đôi mắt của kẻ qua đời đã bị bàn tay phũ phàng kia làm cho lật hẳn mi lên. Mà cái mồm, một cái mồm không răng trông sâu hoăm hoắm mà tối om om, sau khi đã bị vành thì thôi, nhất định không thèm ngậm lại. Người chết hình như trợn mắt, há mồm, nguyền rủa thằng con bất hiếu, trông đáng sợ vô cùng.

Nó đứng ngây ra đấy kinh khủng mà nhìn không chóp mắt một hồi, rồi sau khi rú lên một tiếng, bưng mặt đẩy cửa chạy đi” (Bộ răng vàng, tuyển tập Vũ Trọng Phụng, trang 548).

Nhưng chưa hết, khi thằng em hoảng sợ rú lên vùng chạy, tránh ánh mắt kinh hoàng của người chết, thì anh nó tỉnh dậy, nạt nộ em rồi thản nhiên nhặt bộ răng vàng đút vào túi!

Cái hiện thực mà Vũ Trọng Phụng mô tả, đi xa hơn bất cứ nhà văn nào từ trước đến giờ. Ông không cho ta một ảo tưởng nào nữa về con người, nghiã là ông đã đi sâu vào lòng giếng không đáy của sự bất nhân, đã đi tới non cùng thủy tận của lòng người.

No comments :

Post a Comment


 Tục ngữ & Thành ngữ

 Nghệ Thuật Sống