Thursday, October 8, 2015

Thi pháp Nguyễn Bính

pic
Thụy Khuê
Thơ Nguyễn Bính kết hợp hai thể loại của hai dòng thi ca cổ điển : thể ngâm của Cung oán và Chinh phụ và thể thoại của các truyện nôm : Hoa tiên, Kiều… Nói khác đi thơ Nguyễn Bính là tự truyện kết hợp với tiểu thuyết. Nếu Cung oán và Chinh phụ là những khúc ngâm của người đàn bà thế kỷ XVIII, thì Lỡ bước sang ngang là khúc ngâm của người đàn bà đầu thế kỷ XX.

Bài thơ Lỡ bước sang ngang khi ra đời có lẽ không bao giờ ngờ rằng nó sẽ trở thành tác phẩm «báo mộng» cuộc đời Nguyễn Bính : một đời lỡ bước, một đời tài hoa bạc mệnh. Một đời chia ly, phân kỳ, đoạn trường, tang liệm, một đời khát khao tình yêu và hạnh phúc. Tập Lỡ bước sang ngang mở đầu bằng bài thơ bạc mệnh ấy và kết thúc bằng hai bài Chuyến tàu đêm và Đàn tôi, cả ba đều là thơ bạc mệnh, như thể bao nhiêu nỗi buồn trên thế gian đều theo nhau vào thơ Nguyễn Bính

Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh năm 1919, quê ở xóm Trạm, thôn Thiện Vinh, xã Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Mồ côi mẹ từ lúc ba tháng. Không học ở trường mà học nhà với cha và cậu. Làm thơ từ lúc 13 tuổi. Được giải khuyến khích của Tự Lực Văn Đoàn năm 1937. Đến năm 1942, Nguyễn Bính đã có 7 tập thơ : Lỡ bước sang ngang và Tâm hồn tôi (in năm 1940), Hương cố nhân và Một nghìn cửa sổ (1941), Người con gái ở lầu hoa, Mười hai bến nước, Mây tần và Bóng giai nhân (1942).

Nguyễn Bính nổi tiếng ngay từ tập thơ đầu, Lỡ bước sang ngang. Người Việt từ Nam chí Bắc thuộc Lỡ bước sang ngang. Sự bình dân của Nguyễn Bính được Hoài Thanh Hoài Chân giải thích trong Thi Nhân Việt Nam, như một lời khen, rằng Nguyễn Bính đã làm sống lại mỗi con người nhà quê trong chúng ta, nhưng Hoài Thanh Hoài Chân lại tiếc rằng Nguyễn Bính làm thơ bình dân như thế thì «khó lọt vào mắt những nhà thông thái» và các ông trách Nguyễn Bính đã nhà quê sao lại không nhà quê cho trót, mà thình thoảng lại chêm những câu thơ rất «tỉnh» vào, làm cho «người ta khó nhận thấy cái hay của những câu thơ khác có tính chất ca dao».

Tóm lại, theo Hoài Thanh Hoài Chân : thơ Nguyễn Bính nhà quê và cái hay trong thơ Nguyễn Bính là nhờ giống ca dao. Cả hai nhận xét đều vội vàng, sai lạc, rất bề ngoài, vì không phải, trong thơ, cứ tả cảnh sống ở thôn quê là thành người nhà quê, cứ có thôn Đông, thôn Đoài, có vườn dâu, nong tằm là có chất ca dao. Hai nhà phê bình khác, cảm thông sâu sắc với định mệnh khắt khe, đau buồn trong thơ Nguyễn Bính là Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng trong Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến, do Sống Mới tái bản năm 1968, tại Sài Gòn.

Thơ Nguyễn Bính bình dân, nhưng không quê mùa. Nguyễn Bính đã nhập hồn người dân quê, hồn người phụ nữ, để viết lại đời sống quê hương và dân tộc mình, bằng một giọng thơ bình dân ai cũng hiểu. Bình dân được như Nguyễn Bính không phải dễ.

Nguyễn Bính nói hộ cả một thế hệ đàn bà, một thế hệ lỡ bước trong những cuộc hôn nhân dàn xếp, bằng ngôn ngữ của họ, bằng những thổn thức của họ. Nguyễn Bính nói thơ chứ không làm thơ. Ngôn ngữ thơ của ông là ngôn ngữ đối thoại giữa hai người, hoặc một người độc thoại với chính mình. Chính cái cấu trúc thi thoại, gồm đối thoại và độc thoại trong thơ ấy, đã tạo nên thi ca Nguyễn Bính :

Em ơi, em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương

Cấu trúc thi thoại, gọi nôm na là thơ nói có từ thế kỷ XVIII, trong các truyện nôm.

Nền thơ nôm của chúng ta khá rực rỡ trong thế kỷ XVIII với ba tác phẩm cột trụ : Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự (1743-1790) và Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn do Phan Huy Ích (1750-1822) dịch, mà tới nay người ta vẩn coi là của Đoàn Thị Điểm, mặc dù Hoàng Xuân Hãn đã chứng minh về văn bản trong Chinh phụ ngâm bị khảo từ hơn nửa thế kỷ nay.

Cung oán và Chinh phụ là những khúc ngâm, tức là những lời tâm sự, than vãn của một người đàn bà, nói cách khác, đó là những «tự truyện» khổ đau ; trong khi Hoa tiên là một truyện nôm, tức là một «tiểu thuyết» viết bằng thơ. Hoa tiên mở đường cho những truyện nôm sau này như Quan Âm Thị Kính, Lục Vân Tiên, Bích Câu kỳ ngộ, Nhị Độ Mai, Nữ Tú Tài, Phan Trần … và nhất là truyện Kiều của Nguyễn Du. Truyện nôm là một hình thức tiểu thuyết, mà trong tiểu thuyết phải có đối thoại. Vì vậy, trong truyện nôm luôn luôn có những chữ : nàng rằng, chàng rằng. Ví dụ trong Hoa Tiên :

Thưa rằng : Chút phận bọt bèo
Hậu sinh đã dám chơi trèo sao nên

Hoặc trong Quan Âm Thị Kính :

Chàng rằng: Giấc bướm vừa say
Dao con nàng bỗng cầm tay kề gần

Thơ Nguyễn Bính kết hợp hai thể loại trên đây: thể ngâm của Cung oán và Chinh phụ và thể thoại của các truyện nôm : Hoa tiên, Kiều… Nói khác đi thơ Nguyễn Bính là tự truyện kết hợp với tiểu thuyết trong thơ.

Tác phẩm Lỡ bước sang ngang cho thấy ảnh hưởng sâu sắc của hai dòng thi ca cổ điển này. Nếu Cung oán và Chinh phụ là những khúc ngâm của người đàn bà thế kỷ XVIII, thì Lỡ bước sang ngang là khúc ngâm của người đàn bà đầu thế kỷ XX. Khúc ngâm nào cũng gắn bó với hai niềm đau : Tình thế bi đát của đối tượng mà tác giả đưa ra và niềm đau nội tâm của chính tác giả. Đối tượng trong Cung Oán và Chinh phụ ai cũng đã rõ. Đối tượng trong Lỡ bước sang ngang, ở ngay trong đề : lời than của một thiếu phụ lấy người mà mình không yêu.

Đây cũng là bi kịch chung của người phụ nữ đầu thế kỷ XX mà những ngòi bút thời ấy không mấy ai không viết, từ Hoàng Ngọc Phách đến Khái Hưng, Nhất Linh, qua TTKh. Theo Bùi Hạnh Cẩn, anh họ của Nguyễn Bính, trong cuốn Nguyễn Bính và tôi (nxb Văn Hoá Thông Tin, tái bản 1999) thì đối tượng ngoài đời của bài thơ là Th, người yêu của nhà thơ Trúc Đường, anh ruột Nguyễn Bính. Nguyễn Bính đặt tên cho người đàn bà này là chị Trúc. Chị Trúc trở thành đối tượng của nhiều khúc ngâm, trong những giây phút đau thương nhất của đời mình, Nguyễn Bính thường làm thơ gửi cho chị Trúc, viết về niềm đau của chị Trúc như niềm đau của chính mình. Chị Trúc là một nàng thơ, là một ảnh thật và ảnh ảo chập chùng. Thân phận lỡ làng, nổi trôi của chị Trúc cũng là thân phận lênh đênh lạc loài của Nguyễn Bính.

Lỡ bước sang ngang còn là một truyện nôm. Nguyễn Du khi viết truyện Kiều đã chịu ảnh hưởng của Nguyễn Huy Tự trong Hoa tiên, Nguyễn Bính khi viết Lỡ bước sang ngang đã lấy Nguyễn Du làm mẫu.

Chúng ta thử đọc lại đoạn Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân trước khi đi vào cuộc đời mưa gió, Nguyễn Du viết :

Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy, rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa, mặc em.
Nguyễn Bính viết:
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa
Cậy em, em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương

Ảnh hưởng trực tiếp, rất thầy trò. Lỡ bước sang ngang có hơi thơ Nguyễn Du, có cái tâm Nguyễn Du, có lòng thành Nguyễn Du, có cách đưa đối thoại vào thơ thần tình như Nguyễn Du. Bởi cả hai nhà thơ đều đã nhập vào hồn nhân vật mà họ diễn tả. Nguyễn Du nhập vào Kiều, viết hộ Kiều những lời tha thiết dặn dò Thúy Vân, trước khi bước vào quãng đời mưa gió. Nguyễn Bính nhập vào hồn người chị trước khi lấy chồng, dặn em những lời đau đớn xót xa :

Rồi đây sóng gió ngang sông
Đầy thuyền hận chị lo không tới bờ
Miếu thiêng vụng kén người thờ
Nhà hương khói lạnh, chị nhờ cậy em
Đêm nay là trắng ba đêm
Chị thương chị, kiếp con chim lìa đàn
Một vai gánh lấy giang san…
Một vai nữa gánh muôn vàn nhớ thương
Mắt quầng, tóc rối tơ vương
Em còn cho chị lược gương làm gì !
Một lần này bước ra đi
Là không hẹn một lần về nữa đâu
Cách mấy mươi con sông sâu
Và trăm nghìn vạn dịp cầu chênh vênh
Cũng là thôi… cũng là đành…
Sang ngang lỡ bước riêng mình chị sao ?

Lỡ bước sang ngang viết cho chị Trúc. Là tiếng bạc mệnh của một người chị, nhưng cũng là điềm «báo mộng» quãng đời lưu lạc của tác giả :

Mười năm gối hận bên giường
Mười năm nước mắt bữa thường thay canh
Mười năm đưa đám một mình
Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên
Mười năm lòng lạnh như tiền
Tim đi hết máu, cái duyên không về

Những năm bốn mươi ở Hà Nội, nghệ sĩ, thường không có kế sinh nhai, thơ không nuôi nổi người, phải đi nơi khác «kiếm ăn». Nguyễn Bính đi Nam khoảng 1941, lang bang vào Thanh Hoá rồi đến Huế :

Chúng tôi hai đứa xa Hà Nội
Bốn tháng hình như kém mấy ngày
Lăn lóc có dư mười mấy tỉnh
Để rồi nằm mốc ở nơi đây (Giời mưa ở Huế, 1941)

Hai đứa đây là Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can.

Từ Huế, Nguyễn Bính vào Nam, lang thang Rạch Giá, Hà Tiên, Sài Gòn, ngủ đình, ngủ chợ, nay tá túc chỗ này, mai ở nhờ chỗ khác. Sau này Kiên Giang đã viết những dòng cảm động, tả lại những nỗi «đoạn trường» nằm đất, quấn nóp (một thứ túi ngủ), ngủ đình của Nguyễn Bính trong quãng đời lưu lạc này.

1945, cách mạng bùng nổ, Nguyễn Bính được mời tham gia kháng chiến, nhưng tạng Nguyễn Bính không hợp với thơ tuyên truyền, cho nên ông chỉ viết được những vần thơ khẩu hiệu, không hay :

Đánh ! Đánh! Đánh! Chỗ nào cũng đánh
Hoặc những câu gượng gạo như:
Nếu quân thù không đem binh tiếp viện
Thì quân ta tiêu diệt hết quân thù.

Trong suốt thời gian chín năm gắn bó với cách mạng, những vần thơ hay nhất của Nguyễn Bính là những bài thơ ở Nam nhớ Bắc, rồi sau 54, về Bắc nhớ Nam : Mối tình đầu tiên và chân thật nhất của Nguyễn Bính là quê hương đất nước.

1954, tập kết ra Bắc, Nguyễn Bính để lại trong Nam người vợ và đứa con. Khi chủ trương tờ Trăm Hoa cùng với Nhân Văn Giai Phẩm, Nguyễn Bính viết bài Tỉnh giấc chiêm bao, trên báo Trăm Hoa, tháng 12/1956, với những câu thơ đắng cay, hai nghiã, có thể hiểu là ông viết lại truyện nhân duyên trắc trở của mình với người vợ hay là với cách mạng, bởi đó là cuộc nhân duyên “Chín năm đốt đuốc soi rừng” (1945-1954). Những tưởng: “Duyên nhau đã dựng Trường- đình” Nào ngờ :”Mẹ em đã xé tan tành gối thêu”.

Sau cơn bão táp Nhân Văn Giai Phẩm, Nguyễn Bính trở về Nam Định, sống quãng đời đen tối còn lại của những người đã trót gắn bó với Nhân Văn. Lỡ bước sang ngang lại một lần nữa trở về trong định mệnh của Nguyễn Bính :

Chị giờ sống cũng bằng không
Coi như chị đã sang sông đắm đò

Một định mệnh tăm tối, u buồn, sa thải, cho đến lúc mất, trong cô đơn, bệnh tật và đói vào ngày cuối cùng của năm Ất Tỵ , ngày 20/1/1966.

Nói về thi pháp Nguyễn Bính tức là nói về một dòng thơ không thi pháp. Nguyễn Bính đã vô hiệu hoá tất cả những quy luật về thi ca từ trước đến giờ. Bởi tất cả những lý thuyết về thơ, đại loại như : ngôn ngữ thơ phải là một thứ ngôn ngữ độc đáo phi thường, ra khỏi phạm vi của lời nói hàng ngày. Nhà thơ phải bóp méo ngôn ngữ nói bằng những thủ pháp ẩn dụ, hoán dụ, đảo ngữ … để đạt tới ngôn ngữ thơ, mà mỗi chữ phải có một giá trị riêng biệt, khác với công dụng của nó trong ngôn ngữ hàng ngày v.v… Nói khác đi, thơ phải là những câu với lời lẽ trác tuyệt như thơ Ôn Như Hầu : Trải vách quế gió vàng hiu hắt. Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng.

Tất cả những nguyên tắc ngôn ngữ thơ ấy đối với Nguyễn Bính đều vô dụng. Thơ Nguyễn Bính chính là tiếng nói hàng ngày, là ngôn ngữ chúng ta thường dùng để nói chuyện với nhau, không có gì khác cả, Thơ Nguyễn Bính là lời mẹ dỗ con gái trong buồng, trước khi nhà trai đến đón dâu:

Gái lớn ai không phải lấy chồng
Can gì mà khóc nín đi không
Nín đi mặc áo ra chào họ
Rõ quý con tôi các chị trông
Ương ương dở dở quá đi thôi
Cô có còn thương đến chúng tôi
Thì đứng lên nào, lau nước mắt
Mình cô làm khổ bấy nhiêu người
Này áo đồng lầm quần lĩnh tiá
Này gương này lược này hoa tai
Muốn gì tôi sắm cho cô đủ
Nào đã thua ai đã kém ai (Người mẹ)

Thơ Nguyễn Bính là lời người dì thủ thỉ dặn dò cháu gái trong đêm tân hôn :

Dì em khe khẽ tai em dặn :
Như thế…từ nay…cháu nhớ chưa
Chết nhỉ ! Đêm nay ngủ với chồng
Trời ơi ! Gió lạnh ! Gớm mùa đông
Lặng yên níu áo dì em lại
Ngủ nốt đêm nay có được không ? (Giọt nến hồng, 35)

Thơ Nguyễn Bính là lời cha thi sĩ, tha thiết khuyên con gái :

Nhất kiêng đừng lấy chồng thi sĩ !
Nghèo lắm con ơi ! Bạc lắm con ! (Oan nghiệt)

Từ Nguyễn Du, chưa ai viết được những lời thơ đối thoại thần tình như vậy.

Cái kinh nghiệm sống, kinh nghiệm đời ấy, Nguyễn Bính lấy từ đâu ? Làm sao một cậu thanh niên chưa đầy hai mươi tuổi đã có thể nằm trong da thịt và tâm hồn người đàn bà hôn nhân ngang trái, để viết nên những hàng :

Năm xưa đêm ấy giường này
Nghiến răng… nhắm mắt…cau mày…cực chưa? (Lỡ bước sang ngang)

Nguyễn Bính không chỉ dừng lại ở ngang trái. Nhà thơ hai mươi tuổi ấy đã đi hết trọn đời người và đã viết những câu thơ tiên tri cho định mệnh của chính mình :

Bao nhiêu đau khổ ngần này tuổi
Chết cũng không non yểu nỗi gì (Giối giăng)
*
Cho nên, sự độc đáo nhất của Nguyễn Bính là ông đã khuynh đảo tất cả những lý thuyết về ngữ học văn thơ từ trước đến giờ : thứ lý thuyết phân biệt giữa văn thơ và lời nói thông thường. Ông dùng ngôn ngữ hàng ngày để là thơ, và thơ ông thường là một câu truyện, ông kể lại những chuyện tầm thường nhất, ví dụ chuyện hai chiếc lá bàng rụng :

Thu đi trên những cành bàng
Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi
Hôm qua đã rụng một rồi
Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn
Hôm nay lá thấy tôi buồn
Lìa cành theo gió lá luồn qua song
Hai tay ôm lá vào lòng
Than ôi ! Chiếc lá cuối cùng là đây (Cây bàng cuối thu)

Chỉ là câu chuyện hai chiếc là vàng rụng, với những lời lẽ mộc mạc nhất, nhà thơ đã tạo nên một không gian chia lìa, một đời hoang lạnh, một tình yêu chớm nở giữa lá và người, trước khi lá kia nhắm mắt Lìa cành theo gió lá luồn qua song, người đã Hai tay ôm lá vào lòng.

Trong những trang cuối của tập Lỡ bước sang ngang, bài Chuyến tàu đêm đứng riêng một cõi. Chuyến tàu đêm là một chuyến tàu siêu thực, là tác phẩm đặc biệt của Nguyễn Bính ra khỏi quỹ đạo ngâm khúc và truyện nôm, hai yếu tố chính cấu thành thơ Nguyễn Bính :

Gió lạnh, nghe chừng đêm thấy sâu
Mà con đò mộng đã sang đâu !
Qua song, một chuyến tàu đêm chạy
Một chuyến tàu đêm chảy rất mau
Những ánh đèn phai tựa nắng tà
Toa này toa khác nối liền toa
Chập chờn như một con giời lớn
Như một oan hồn hiển hiện ra
Tàu chạy hình như để chở buồn
Chở người đi nhớ kẻ về thương
Nâng bao nhiêu gót chân xinh đẹp
Tàu chạy đêm nay có lạc đường
Tàu biết bây giờ chạy đến đâu ?
Đêm sâu hoàn trả lại đêm sâu
Bỏ đây một chiếc tàu kiêng đỗ
Chở một toa tim nặng oán sầu

Bài thơ tả một chuyến tàu đi trong mơ, đi trong tâm linh, trong cô đơn hoang lạnh và không dừng lại ở ga hồn người chờ đợi. Tính chất siêu thực không đến từ một thủ pháp ẩn dụ như những nhà thơ khác vẫn làm, mà đến từ những chữ rất bình thường như «tàu đêm» «chảy», « chập chờn như một con giời lớn ». Sự lộng lẫy ma quái của « con giời » ẩn chứa tất cả các thể lỏng, thể đặc, sự thay đổi hình hài, biến thiên màu sắc, tạo ra cái ghê rợm trầm uất của một con tàu ma « chở một toa tim nặng oán sầu ».

Nỗi đau nơi Nguyễn Bính đã nhập vào ngũ tạng nó không phải là nỗi đau lãng mạn, mà đã trở thành nỗi đau nội tâm và ý thức. Rồi bài Quán lạnh vẫn tác giả là cậu thanh niên hai mươi tuổi ấy dẫn chúng ta đến một hội ngộ bất ngờ khác :

Mùa thu đến chậm như chưa đến
Lá vội rơi theo gió vội vàng
Sương đã dâng lên, chiều lắng xuống
Bến đò đã tắt chuyến sang ngang
Đem theo cát bụi đường xa lại
Tráng sĩ dừng chân khẽ thở dài
Hơi lạnh đầm đià trong quán lạnh
Người ta đóng giở chiếc quan tài (Quán lạnh)

Trên cuộc đời không nguôi lữ thứ, quán là nhà, lạnh là bạn.

Nhà thơ tráng sĩ hạnh ngộ với chiếc quan tài, với nỗi chết giữa đường.

Nguyễn Bính nhỏ lệ khô bằng những gieo âm bất ngờ “Mùa thu đến chậm như chưa đến”. Tại sao lại “như” ở đây ? Ở chỗ không ngờ nhất ? Rồi đến “lá vội rơi theo gió vội vàng”. Lại nữa, hai lần vội, lá vội và gió vội. Tiếp theo là “Hơi lạnh đầm đìa trong quán lạnh”, lại thêm hai lần lạnh. Tất cả những bất ngờ, không chờ, không đợi ấy, dội lên không gian hoang vắng của “bến đò đã tắt chuyến sang ngang” để dẫn đến bất ngờ cuối cùng là nỗi chết : “người ta đóng giở chiếc quan tài”.

Những buồn, lạnh, vội, tạm, gặp nhau trong cái quán này. Quán của niềm đau và nỗi chết. Thi sĩ như cái quan tài phiêu lưu, lang bạt, nay chỗ này mai chỗ khác, một cái chết lưu vong, cái chết lữ thú, cái chết lạc loài, không chỗ đỗ :

Sáng mai xuôi ngược về đâu nhỉ
Nào biết về đâu kẻ ngược xuôi (Ngược xuôi)

No comments :

Post a Comment


 Tục ngữ & Thành ngữ

 Nghệ Thuật Sống