Chuyện tìnhTrọng Thủy - Mỵ Châu
«Tôi kể người nghe chuyện Mỵ Châu», xin mượn câu thơ nổi tiếng này của nhà thơ Tố Hữu để bắt đầu một câu chuyện mang đẫm màu sắc huyền thoại của lịch sử Việt Nam trong buổi đầu dựng nước : Chuyện tình Trọng Thủy-Mỵ Châu. Cũng như tất cả các dân tộc trên thế giới, lịch sử Việt Nam thường có những câu chuyện mang màu sắc huyền thoại.
Đó chính là một trong những phần tinh
túy và thiêng liêng nhất, nó góp phần tạo nên một sợi dây vô hình buộc chặt tâm
hồn con người vào đất nước quê hương mình. Thế nhưng, giá trị lớn nhất của lịch
sử là « ôn cố tri tân », tức để cho hậu thế xem xét mà rút ra những bài học
kinh nghiệm cho cuộc sống. Trong chuyện tình Trọng Thủy-Mỵ Châu, gấp sách lại,
xin đừng tự hỏi rằng có những chỗ đáng tin hay không đáng tin, mà điều quan trọng
là nên tự hỏi rằng : Câu chuyện đó muốn kí thác điều gì cho hậu thế ?
Chuyện tình Trọng Thủy-Mỵ Châu gắn liền
với lịch sử ngàn năm Bắc Thuộc của nước Việt Nam thuở trước, bởi sự kiện An
Dương Vương mất nước đã bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc của lịch sử Việt Nam. Câu chuyện
này được sách sử ghi lại như thế nào ?
Đại Việt sử ký toàn thư thời Hậu Lê
Đầu tiên đến với bộ Đại Việt sử ký
toàn thư, là bộ quốc sử bằng chữ Hán viết theo thể biên niên, ghi chép lịch
sử Việt Nam từ thời Kinh Dương Vương năm 2879 trước Công nguyên (TCN) đến năm
1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê (1428-1879). Bộ sử này được khắc in toàn bộ
và phát hành lần đầu tiên vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hoà năm thứ 18, triều
vua Lê Hy Tông, tức là năm 1697, được xem là bộ chính sử Việt Nam xưa nhất còn
tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay, do nhiều đời sử quan trong Sử quán triều Hậu
Lê biên soạn.
Về chuyện Trọng Thủy-Mỵ Châu, Đại Việt
sử ký toàn thư chép như sau: “ Bấy giờ Thục Vương đắp thành ở Việt Thường,
rộng nghìn trượng, cuốn tròn như hình con ốc, cho nên gọi là Loa Thành (Nay còn
di tích ở huyện Đông Anh, Hà Nội), lại có tên là thành Tư Long (người nhà Đường
gọi là thành Côn Lôn (Côn Lôn: Tên dãy núi Trung Quốc ở miền Tân Cương - Tây Tạng,
vì thành rất cao). Thành này cứ đắp xong lại sụt, vua lấy làm lo, mới trai giới
khấn trời đất và thần kỳ núi sông, rồi khởi công đắp lại.
Bính Ngọ, năm thứ 3 (255 TCN), mùa
xuân, tháng 3, chợt có thần nhân đến cửa thành, trỏ vào thành, cười mà nói rằng:
" Đắp đến bao giờ cho xong! ". Vua mời vào điện hỏi, thần nhân
trả lời: " Cứ đợi giang sứ đến ". Rồi cáo từ đi ngay.
Sáng hôm sau, vua ra cửa thành, quả thấy
có con rùa vàng bơi trên sông từ phía đông đến, xưng là giang sứ, nói được tiếng
người, bàn được việc tương lai. Vua mừng lắm, để vào mâm vàng, đặt mâm lên trên
điện. Vua hỏi về nguyên nhân thành sụp, rùa vàng đáp: " Đó là do tinh
khí núi sông vùng này bị con vua trước phụ vào để báo thù nước, nấp ở núi Thất
Diệu. Trong núi có con quỷ, đó là người con hát thời trước chôn ở đấy hóa làm
quỷ. Cạnh núi có cái quán, chủ quán tên là Ngộ Không, có một đứa con gái và một
con gà trắng, đó là dư khí của tinh, phàm người qua lại, ngủ đêm ở đấy, đều phải
chết vì bị quỷ làm hại. Chúng có thể gọi nhau họp đàn lũ, làm cho sụp thành. Nếu
giết con gà trắng để trừ tinh khí ấy, thì thành tự nhiên được bền vững ». Vua
đem rùa vàng đến quán ấy, giả làm người ngủ trọ. Chủ quán nói :
" Ngài là quý nhân, xin đi ngay, chớ lưu lại đây mà bị họa". Vua
cười nói : "Sống chết có mệnh, ma quỷ làm gì nổi ? ".
Rồi ngủ lại quán. Đến đêm nghe tiếng
tinh quỷ từ ngoài đến gọi mở cửa, rùa vàng liền quát mắng, quỷ không vào được,
đến khi gà gáy thì lũ quỷ tan chạy hết. Rùa vàng xin vua đuổi theo. Tới núi Thất
Diệu thì tinh khí biến mất, vua trở về quán. Sáng sớm, chủ quán tưởng vua đã chết
rồi, gọi người đến để khâm liệm đem chôn. Thấy vua vẫn vui vẻ cười nói, chủ
quán liền sụp lạy nói: " Ngài làm sao được như thế, tất phải là thánh
nhân! ". Vua xin con gà trắng giết để tế. Gà chết, con gái chủ quán
cũng chết theo. Vua liền sai người đào núi, thấy có nhạc khí cổ và xương người,
đem đốt thành tro, rải xuống sông, yêu khí mới mất hẳn.
Từ đấy, đắp thành không quá nửa tháng
thì xong. Rùa vàng cáo từ ra về. Vua cảm tạ, hỏi rằng: " Đội ơn ngài
thành đắp đã vững, nếu có giặc ngoài đến, thì lấy gì mà chống giữ ? "
Rùa vàng bèn trút chiếc móng trao cho vua và nói: " Nước nhà yên hay
nguy đều do số trời, nhưng người cũng nên phòng bị; nếu có giặc đến thì dùng
móng thiêng này làm lẫy nỏ, nhằm vào giặc mà bắn thì không phải lo gì ".
Vua sai bề tôi là Cao Lỗ (có sách chép là Cao Thông) làm nỏ thần, lấy móng rùa
làm lẫy, đặt tên là Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ”.
Các bộ sử sau Đại Việt sử ký toàn thư
Các bộ sử sau Đại Việt sử ký toàn thư
Đại Việt Sử ký toàn thư đã ghi lại câu
chuyện như vậy, và các thế hệ sử gia đời sau cũng tiếp nối, ghi lại câu chuyện
nhuốm màu thần thoại này một cách tương tự.
Một bộ sử đồ sộ khác của Việt Nam ra đời
hồi thế kỷ 19 là Khâm định Việt Sử Thông Giám Cương mục do Quốc sử quán Triều
Nguyễn (1802-1945) biên soạn chép rằng: “ Tháng ba, Năm Bính Ngọ 255 TCN,Thục
An Dương Vương năm thứ 3, đắp xong Loa thành. Vua Thục đắp thành ở Phong Khê, rộng
đến nghìn trượng, xoáy tròn như hình trôn ốc, nên gọi là Loa thành, lại gọi là
thành Tư Long ”.
Đi vào chi tiết, chuyện Trọng Thủy-Mỵ
Châu được ghi lại trong bộ sử này không có gì khác biệt so với bộ Đại Việt Sử
ký toàn thư ra đời cách đó hai thế kỷ. Thế nhưng, có một nét đáng chú ý là
các sử gia triều Nguyễn, khi kể lại câu chuyện này, đã ghi rất rõ : Chép theo sử
cũ, mà sử cũ cụ thể là sử nào thì họ không nói rõ. Điều đó muốn nói rằng, dù
câu chuyện có nhiều chi tiết hư cấu, nhưng các sử gia này xin chép lại « theo
sử cũ » để cho hậu thế được biết.
Đến bộ Việt Sử Tiêu Án ra đời
năm 1775 của Ngọ Phong Ngô Thì Sĩ, chuyên bàn luận về những câu chuyện lịch sử
còn nhiều nghi vấn, thì câu chuyện xây thành Cổ Loa và nỏ thần được ghi lại giống
y như chuyện của Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, nhưng cũng dẫn chuyện bằng ba chữ: “
Sử cũ chép…”, và còn thể hiện quan điểm rõ ràng về những chi tiết không có
thật: “ Việc ma làm đổ thành, có thể tin được không? Phàm vật gì trái thường
thì gọi là yêu, yêu khí thắng thì tất phải có nương tựa vào cái gì đó, nhưng mà
nương tựa vào con gà và người con gái mà làm đổ được thành, thì không có lẽ nào
”.
Năm 1919, Lệ Thần Trần Trọng Kim làm
quyển Việt Nam Sử Lược, dành một chương cho Nhà Thục của Thục Phán An
Dương Vương, trong đó cũng ghi lại câu chuyện Thục Phán An Dương Vương xây
thành Cổ Loa, rồi đến chuyện tình Trọng Thủy-Mỵ Châu, với nội dung cũng không
có gì khác so với Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Tuy nhiên, sử gia Trần Trọng
Kim cũng ghi rõ: “ Tục truyền rằng…”, đã cho thấy quá rõ ý của ông.
Còn nhiều chi tiết cần khảo cứu thêm
Không chỉ chuyện xây dựng Loa Thành và
chuyện Nỏ Thần mang nhiều chi tiết khó tin, mà đến một số chi tiết trong chuyện
tình Trọng Thủy-Mỵ Châu cũng còn cần phải khảo cứu thêm. Chẳng hạn như chi tiết
quan trọng nhất thể hiện sự chung thủy trong mối tình này là việc Trọng Thủy nhảy
xuống giếng chết để tạ tình của Mỵ Châu, cũng còn nhiều bàn cãi.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Trọng
Thủy có người con trai là Triệu Hồ, sau này trở thành người nối ngôi Triệu Đà
vào năm 137 TCN và qua đời năm 124 TCN ở tuổi 52. Căn cứ vào năm mất và số tuổi
thọ được ghi, ta thấy Triệu Hồ sinh năm 175 TCN. Ghi chép của Đại Việt sử ký
toàn thư về cuộc đời Trọng Thủy có chỗ không lô-gich: Một mặt Trọng Thủy được
xác định chết khi diệt xong Âu Lạc vào năm 208 TCN, thế mà con trai ông lại
sinh vào năm 175 TCN, tức sau khi ông mất đến 33 năm. Liệu ông có còn người con
nào khác chăng? Theo khảo cứu của tác giả bài viết này, thì sách sử chỉ thấy
nói đến người con trai mang tên là Triệu Hồ nói trên của Trọng Thủy.
Sử ký
của Tư Mã Thiên đời nhà Hán được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN cho biết, Nam
Việt của Triệu Đà đánh bại Âu Lạc của Thục Phán An Dương Vương vào khoảng năm
179 TCN. Tuy vậy, nếu Trọng Thủy chết theo Mỵ Châu lúc này thì ông cũng không
thể là cha của Triệu Hồ, vì khoảng cách từ khi ông qua đời tới khi Triệu Hồ ra
đời là 4 năm. Còn nếu như giả thiết năm sinh của Triệu Hồ là 175 TCN là đúng,
thì ta có thể xác định Trọng Thủy còn sống ít nhất tới năm 175 TCN chứ không tự
sát vì Mỵ Châu vào năm 208 TCN.
Mặt khác, qua kết quả khảo cổ mộ Triệu
Văn Vương (cháu nội của Triệu Đà, là vua thứ hai của Nam Việt) được khai quật ở
Quảng Châu thuộc Quảng Đông Trung Quốc, Triệu Hồ được xác định là người qua đời
ở tuổi khoảng từ 35-40 tuổi, không phải là người ngoài 50 tuổi như ghi chép của
Đại Việt sử ký toàn thư. Nếu Triệu Hồ mất năm 124 TCN và chỉ sống có
35-40 năm, thì Trọng Thủy còn sống ít nhất tới năm 164 TCN-159 TCN và mất trước
năm 137 TCN (năm mất của Triệu Đà), chứ không phải mất vào cái năm đánh bại Âu
Lạc 208 TCN, tức cũng không thể nhảy xuống giếng tạ tình Mỵ Châu cho được.
Một chi tiết khác đáng chú ý nữa là, Khâm
định Việt sử thông giám cương mục nhà Nguyễn chỉ nhắc tới việc Trọng Thủy lừa
Mỵ Châu để phá nỏ thần, rồi theo dấu lông ngỗng mà truy sát cha con An Dương
Vương, chứ không nói tới việc Trọng Thủy tự vẫn chết theo Mỵ Châu và cũng không
nói tới tuổi thọ của Triệu Hồ.
Bài học mất nước thời dựng nước
Đến đây ta có thể thấy rằng, dù có bỏ
qua những chi tiết huyền thoại không thể chứng minh, thì chuyện tình Trọng Thủy-Mỵ
Châu vẫn còn nhiều chi tiết chưa thống nhất. Vậy thì các sử gia đời trước đã
trang trọng chép lại chuyện tình đầy nét huyền thoại này với mục đích là để cho
hậu thế có thể « ôn cố tri tân », ngẫm nghĩ việc xưa mà rút ra bài học
cho cuộc sống hiện tại.
Cũng cần nói thêm, hẳn không khỏi có những
mối nghi ngại khi sử dụng tài liệu truyền thuyết. Thực ra, giới nghiên cứu đã
nhiều lần có những phân tích đầy tính thuyết phục về giá trị sử liệu của truyền
thuyết dân gian, đặc biệt đối với những giai đoạn lịch sử người Việt chưa có chữ
viết như thời Hùng Vương - An Dương Vương. Như vậy, trong các truyền thuyết lịch
sử, bao giờ bên trong vỏ bọc hoang đường thần thoại cũng chứa đựng cái cốt lõi
chân thực của những sự kiện, những vấn đề lịch sử có thực.
Vậy thì, khi bỏ qua những chi tiết phép
màu, chuyện Trọng Thủy-Mỵ Châu chứa đựng những cốt lõi lịch sử nào ? Ở đây, có
hai sự thực lịch sử được phơi bài : Chuyện cái nỏ của người Âu Lạc và chuyện An
Dương Vương mất nước.
Bàn về « nỏ thần » của người Việt,
có lẽ vì người Việt khi ấy sử dụng rất hiệu quả vũ khí tên là « nỏ », bởi
thế mà kẻ thù phương Bắc có phần khiếp sợ chăng ?
Về vấn đề này, sử gia Trần Thị Mai, Phó
giáo sư, Tiến sỹ lịch sử Việt Nam, trưởng Phòng sau đại học Trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, cho rằng :
«Nỏ là vũ khí để săn bắn thú rừng làm
nguồn thức ăn. Nỏ là vũ khí để tự vệ khi đi nương, đi rẫy, đi rừng. Nỏ là vũ
khí để tự vệ chống xâm lăng. Trong cuộc kháng chiến chống lại đội quân xâm lược
nhà Tần (214 - 208 TCN) và trong cuộc kháng chiến chống lại đội quân xâm lược của
Triệu Đà (206-179 TCN), nỏ là ưu thế quân sự của người Việt. Để chống lại đội
quân xâm lược của Triệu Đà, tướng sĩ Âu Lạc đã sử dụng nỏ liên châu, một loại nỏ
đã được cải tiến có thể bắn được nhiều mũi tên cùng lúc. Nhờ đó, thành Cổ Loa
đã được bảo vệ vững chắc trong hơn 20 năm trước sức tấn công của quận đội nhà
Triệu. Kết quả khai quật khảo cổ học tại Cổ Loa bởi các nhà khảo cổ học Việt
Nam vào năm 1959 đã tìm thấy lẫy nỏ và hơn 10.000 mũi tên đồng, minh chứng cho
kỹ thuật chế tác nỏ và khả năng sử dụng nỏ cùng mũi tên đồng của quân dân Âu Lạc
thuở ấy ».
Như vậy, câu chuyện cái nỏ là có thật,
« nỏ thần » trong truyền thuyết Trọng Thủy-Mỵ Châu là để chỉ tài dùng nỏ
« thần kỳ » của người Âu Lạc. Đó là một thế mạnh quân sự của người Âu Lạc
làm khiếp sợ kẻ thù. Và bí quyết của sức mạnh quân sự đó đã bị kẻ thù nắm được,
dẫn đến họa mất nước.
Sử gia Trần Thị Mai tổng kết bài học lịch
sử đắt giá này như sau :
« Nỏ liên châu và mũi tên đồng là có thật.
Trọng Thủy là nhân vật có thật, đã từng tham chiến cùng cha của ông là Triệu Đà
trên chiến trường Âu Lạc. Tuy nhiên, câu chuyện Nỏ thần và chuyện tình Mỵ Châu
- Trọng Thủy lại mang đậm chất hư cấu, huyền sử. Người xưa sáng tạo nên những
câu chuyện này là muốn nhắc nhở chính mình và hậu thế không bao giờ được quên
bài học cảnh giác, nhất là cảnh giác trước những âm mưu xảo quyệt của các thế lực
ngoại xâm. Bài học về nàng Mỵ Châu "nỏ thần sơ ý trao tay giặc", về
vua An Dương Vương mất cảnh giác nhận giặc làm con rể để đến nỗi "cơ đồ đắm
biển sâu" thời nào cũng còn nguyên giá trị của nó ».
Đến đây ta có thể tóm lại rằng, câu
chuyện Trọng Thủy-Mỵ Châu để lại cho hậu thế một bài học vô cùng quí giá, đó là
« bài học cảnh giác trước kẻ thù xâm lược ». Và như sử gia Trần Thị Mai
khẳng định, bài học này thời nào cũng còn nguyên giá trị của nó. Bởi thế, bao
thế hệ sử gia Việt Nam đã trang trọng chép lại, để cho hậu thế nhìn vào mà « ôn
cố tri tân ».
Để thay lời kết, sau đây xin mượn bài
thơ của thi sĩ Tố Hữu, những lời thơ mà mỗi người Việt Nam luôn phải xem là «câu
kinh nhật niệm» để tự nhắc nhở mình : Đừng bao giờ chủ quan để mất cảnh
giác trước kẻ thù xâm lược.
" Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu,
Trái tim lầm chỗ để trên đầu.
Nỏ thần vô ý trao tay giặc,
Nên nỗi cơ đồ đắm bể sâu ".
Trái tim lầm chỗ để trên đầu.
Nỏ thần vô ý trao tay giặc,
Nên nỗi cơ đồ đắm bể sâu ".
No comments :
Post a Comment