Tuesday, July 4, 2017

Hàn Mặc Tử: Nhà thơ có số phận kỳ lạ

pic

Trần Đình Thu
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh vào giờ Thìn ngày 22.9.1912 tại làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Lúc còn nhỏ, chàng đã được người anh đầu là một người rất giỏi thơ Đường luật động viên, hướng dẫn làm thơ, nhờ thế chàng có thể sáng tác thành thạo thơ Đường từ rất sớm. Chính những bài thơ này đã dẫn dắt chàng gặp gỡ nhà yêu nước vĩ đại Phan Bội Châu. Và cuộc gặp gỡ định mệnh đó đã làm thay đổi cả cuộc đời chàng về sau.

Ấy là vào năm 1925, Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt ở Trung Quốc và đưa về Việt Nam xét xử. Nhưng dưới áp lực đấu tranh đòi ân xá của các tầng lớp nhân dân trong nước cũng như dư luận quốc tế, chúng phải đưa nhà yêu nước về giam lỏng ở Huế. Từ đó Phan Bội Châu trở thành Ông già bến Ngự, sớm tối lấy văn thơ làm vui. Để giao lưu tâm tình với bạn hữu và những người đồng chí hướng, Phan Bội Châu mở ra Mộng Du thi xã, kêu gọi mọi người gửi thơ văn đến xướng họa. Lời kêu gọi của nhà yêu nước được hưởng ứng sôi nổi. Thơ từ các nơi gửi về cho Mộng Du thi xã rất nhiều. Và trong số các bài thơ gửi đến, Phan Bội Châu đặc biệt tâm đắc với ba bài thơ của Hàn Mặc Tử. Chàng đã gửi đến ba bài thơ Đường luật có tên là Thức khuya, Chùa hoang và Gái ở chùa. Đó là vào khoảng năm 1931.

Những bài thơ của chàng đã xoáy đúng tâm trạng nhà yêu nước. Phan Bội Châu đã họa lại ba bài thơ độc đáo này và cho đăng tất cả trên báo Tràng An, một tờ báo có nhiều bạn đọc xuất bản ở Huế với lời đề dẫn: “Từ khi về nước đến nay, được nghe nhiều về văn thơ quốc âm, song chưa gặp được bài nào hay đến thế. Hồng Nam nhạn Bắc, ước ao có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau cười to một tiếng, ấy là thỏa hồn thơ”.

Việc xướng họa thơ văn với nhà yêu nước Phan Bội Châu đã làm cho Hàn Mặc Tử, khi đó lấy bút hiệu Phong Trần, nổi tiếng ngay lập tức. Làng văn xôn xao trước sự xuất hiện đầy ấn tượng của một thi sĩ mới. Đặc biệt hơn nữa, tác giả còn được Phan Bội Châu tôn xưng là tiên sinh. Tiếp sau đó, Hàn Mặc Tử ra Huế để tìm thăm Phan Bội Châu. Đây là một việc làm hết sức nguy hiểm, vì thực dân Pháp sẽ chú ý đến tất cả những ai có mối quan hệ mật thiết với nhà yêu nước này. Sau cuộc gặp gỡ, Hàn Mặc Tử thường xuyên liên hệ thư từ với Phan Bội Châu, chàng còn gửi thơ của những người bạn khác ra cho ông. Mật thám Pháp sau một thời gian theo dõi, cuối cùng đã quyết định gạt tên chàng ra khỏi danh sách những người được bảo trợ sang Pháp du học. Tiếp đó, Sogny, chánh sở mật thám Huế gửi công văn vào Quy Nhơn yêu cầu điều tra về chàng. Chánh sở mật thám Quy Nhơn là Véran gọi chàng lên tra hỏi nhiều lần làm cho gia đình hết sức lo lắng. Người anh đầu của chàng phải gửi thư ra Huế nhờ Thượng thư Nguyễn Hữu Bài, một người quen thân với gia đình chàng xưa nay, can thiệp với chính quyền thì chuyện mới êm.

Không được đi du học, cuộc đời Hàn Mặc Tử rẽ sang một ngả khác. Từ đấy, chàng bắt đầu bước chân vào con đường viết báo. Thời gian này, tình hình kinh tế nói chung rất khó khăn. Nạn thất nghiệp tràn lan. Chàng làm thêm công việc biên chép các tờ trích lục cũ cho Sở đạc điền Quy Nhơn. Nhưng công việc này chỉ đem đến cho chàng một khoản tiền đủ để mua báo, giấy viết và tem thư gửi bài. Rồi xảy ra cơn bão lớn năm 1934 làm sập căn nhà của chàng đang ở. Nợ nần ập đến. Hàn Mặc Tử quyết định rời Quy Nhơn, vào Sài Gòn lập nghiệp bằng con đường làm báo chuyên nghiệp.

Nhà báo được nhiều chính khách nể trọng

Tháng 7 năm 1934, từ Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử khăn gói lên đường vào Sài Gòn để làm báo theo lời thúc giục, rủ rê của mấy người bạn thân. Sau một thời gian lang thang chờ việc ở Sài Gòn, chàng được mời phụ trách trang văn chương cho tờ báo Trong khuê phòng…

Chàng vừa sáng tác, vừa biên tập bài vở, lại kiêm luôn việc sửa bản in, vì thế thu nhập cũng khá. Nhưng chàng luôn cảm thấy áy náy vì tờ báo mang tên Trong khuê phòng mà nói chuyện văn chương thì có vẻ không ổn. Tuy thế, do chủ báo đối xử quá tử tế nên chàng cũng lấy làm vui. Nhưng có một lần, những người bạn của chàng viết bài gây sự với ai đó, bị công kích lại. Trên một tờ báo ở Sài Gòn, trong mục “Câu chuyện tầm phào” có bài viết mỉa mai “những trang nam tử lập nghiệp trong phòng the”, ý nói nhóm làm báo Trong khuê phòng sống nhờ vào việc khai thác “thông tin khuê phòng”, với nhiều câu mỉa mai rất dung tục khiến chàng bị sốc, không đến tòa soạn nữa. Chủ bút phải cử người tới nhà trọ của chàng lấy bài và an ủi mãi chàng mới trở lại làm việc.

Ở Sài Gòn ít lâu chàng đã trở nên nổi tiếng. Nhiều chính khách kính nể và đến làm quen khi biết chàng từng có mối liên hệ với Phan Bội Châu và bị mật thám Pháp theo dõi. Từ đó chàng quan tâm hơn đến những thông tin chính trị. Chàng định làm một nhà cách mạng chăng? Từ những xướng họa với nhà yêu nước Phan Bội Châu, bỏ qua cả cơ hội quan trọng là sang Pháp du học đến chỗ giao du với các nhân vật chính trị không đơn thuần là những việc làm ngẫu hứng của một chàng thanh niên trẻ tuổi. Nhà báo De Lachevrotière, một nghị viên Pháp lai da màu rất thích tìm chàng để nói chuyện. Qua De Lachevrotière, chàng quen nhiều nhóm chính trị khác nhau. Một số nhóm còn bày tỏ thái độ chống Pháp. Tuy nhiên, lâu dần chàng cảm thấy chán nản khi nhận ra những nhóm chính trị này dù hô hào cách mạng nhưng họ chỉ là những con bài của Pháp mà thôi.

Đầu năm 1935, chàng về Huế, trong một đêm buồn lang thang trên bến sông Hương, chàng đã làm bài thơ Đêm khuya tự tình với sông Hương để tặng Phan Bội Châu với nhiều tâm sự ray rứt:

Bây giờ chỉ có đôi ta
Bao nhiêu tâm sự Hằng Nga biết rồi
Thuở nước non đến hồi non nước
Sông Hương đành xuôi ngược đông tây
Soi lòng chỉ có đám mây
Đám mây phú quý những ngày lao đao
Sao mặt sông xanh xao ra dáng
Sao tình sông lai láng khôn ngăn

Bài thơ được đăng trên báo Công Luận số ra ngày 2.3.1935. Nhiều câu chữ bộc lộ rất rõ ý hướng của chàng:

Mặc ai khanh tướng công hầu
Không thèm chung đỉnh, lưng bầu gió trăng
Sao trời đất đãi đằng ra thế
Sao mưa nguồn chớp bể luôn đêm

Nhà ai khiêu vũ năm canh
Hơi men sực nức dưới thành đô xưa
Sao tức tối trôi bừa đi mãi
Chẳng buồn nghe cô lái thở than
Thuyền em đậu bến Hương giang
Chờ người quân tử lỡ làng tình duyên

Đêm khuya tự tình với sông Hương mang hơi hướng Trên dòng Hương giang của Tố Hữu (*).

Ô hay! Sóng chảy dạt dào
Chiếc thuyền vô định lạc vào bến mê

Hơi thơ tuy ủy mị hơn nhưng tình thơ cũng là thế. Hàn Mặc Tử nhìn thế sự bằng con mắt của một người muốn làm một cái gì để vỡ tung sự đè nén.

Ngoài việc phụ trách trang văn chương cho tờ Trong khuê phòng, Hàn Mặc Tử còn viết cho khá nhiều báo nên kiếm được nhiều tiền nhuận bút. Ngoài báo tiếng Việt, chàng còn viết cho một số báo tiếng Pháp như Impartial, Opinion, La Lutte… Tuy nhiên chàng vẫn luôn thiếu trước hụt sau. Lãnh nhuận bút được bao nhiêu cũng bị bạn “mượn đỡ” mà không bao giờ có chuyện trả lại. Thậm chí quần áo cũng để cho bạn bè dùng chung. Mỗi lần từ Sài Gòn về đến Quy Nhơn chàng chỉ còn chiếc va-ly trống rỗng. Người em kế của chàng tên Nguyễn Bá Tín kể, có lần vào Sài Gòn thăm anh, chẳng những anh ấy không có tiền cho về xe mà còn xin tiền của em mình để tiêu nữa.

Hàn Mặc Tử là một người sống rất vì bạn. Thời kỳ ở Quy Nhơn chưa vào Sài Gòn làm báo, ngôi nhà của chàng là nơi bạn bè tụ tập đến để chơi đùa, nói chuyện văn chương, chuyện trên trời dưới đất. Nhiều người ăn tại trong nhà chàng nhiều hơn ở nhà mình. Tuy nhiên có một điều đặc biệt, chơi hết lòng với bạn nhưng không bao giờ theo bạn chơi bời buông thả. Chàng nhất quyết không dính vào những thứ như gái, thuốc phiện. Hoàng Trọng Miên, một người bạn làm báo thân thiết với chàng tiết lộ: “Có cám dỗ anh Trí vào nếp sống buông thả nhưng tâm hồn anh trinh trắng quá, ngay cả đất Sài Gòn ăn chơi tội lỗi này cũng không cám dỗ anh sa ngã được”.

Thực hư quanh chuyện tình Mộng Cầm

Hàn Mặc Tử quen Mộng Cầm trong thời gian phụ trách trang văn chương cho tờ Trong khuê phòng. Mộng Cầm là cháu gọi Bích Khê bằng cậu, vì “lây nhiễm tinh thần thơ văn” của ông cậu trẻ tuổi nên cũng tập tành làm thơ gửi đăng báo. Hàn Mặc Tử đã nhận được một số bài thơ như thế của Mộng Cầm gửi đến và từ đó làm quen với Mộng Cầm.

Hai mươi năm sau ngày Hàn Mặc Tử mất, vào năm 1961, nhà thơ Nguyễn Vỹ, chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Phổ Thông có tòa soạn tại Sài Gòn đã cử ông Châu Mộng Kỳ tìm gặp Mộng Cầm để thực hiện bài phỏng vấn về mối tình Hàn Mặc Tử – Mộng Cầm. Nhờ mối quan hệ đặc biệt, ông Châu Mộng Kỳ là thầy dạy con riêng của chồng Mộng Cầm, nên bài phỏng vấn mới thực hiện được. Trước đó nhiều nhà báo đã bị từ chối. Trong bài trả lời phỏng vấn nói trên đăng ở tạp chí Phổ Thông số 63, ra ngày 15 tháng 8 năm 1961, Mộng Cầm đã phủ nhận hoàn toàn chuyện tình cảm giữa mình và Hàn Mặc Tử: “Một dịp thứ bảy đi chơi lầu Ông Hoàng, anh thổ lộ mối tình với tôi. Tôi có trả lời anh: Chắc là không thể đi đến chỗ trăm năm được, tôi nói trước để anh đừng hy vọng. Anh hỏi lý do. Tôi viện lẽ tôn giáo khác nhau, nhưng thật ra vì biết Hàn Mặc Tử mang chứng bệnh hiểm nghèo, không thể sống lâu được, ý tôi muốn một người chồng mạnh khỏe, tráng kiện… Tuy vậy chúng tôi vẫn giao thiệp thân mật một hai năm như thế. Trong thời gian này, có nhiều lần, Hàn Mặc Tử năn nỉ tôi dẫn về Quảng Ngãi thăm nhà và trong nhiều bức thư anh đề cập đến vấn đề hôn nhân. Tôi vẫn trả lời, nhưng luôn luôn ngụy biện để từ chối: Em thiết nghĩ chúng ta sống như thế này thanh cao hơn, tôn giáo bất đồng, chữ hiếu bắt buộc em phải nghe lời thân mẫu em”.

pic
Bà Mộng Cầm. Hình chụp năm 1990

Bài phỏng vấn này đăng lên, Nguyễn Vỹ cho biết Mộng Cầm đã đọc và không có điều chi thắc mắc và ông kết luận “đã giải đáp dứt khoát một nghi vấn thường bị nhiều người xuyên tạc”. Tuy nhiên với độc giả, bài trả lời phỏng vấn của Mộng Cầm đã gây sốc. Bởi mối tình Mộng Cầm – Hàn Mặc Tử đã được người đời nâng lên thành huyền thoại. Ngay cả Ngọc Sương, dì ruột của Mộng Cầm cũng phản đối. Rồi đến Quách Tấn, người đã ủng hộ việc Mộng Cầm đi lấy chồng khi hay tin Hàn Mặc Tử bị bệnh nan y cũng giận dữ trước lời phát biểu này. Quách Tấn viết: “Cuộc tình duyên giữa Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm, tôi biết rõ lắm. Nhưng tôi chỉ nói những gì có thể nói được, nói những gì có thể giúp cho bạn đọc hiểu thêm tâm hồn Tử, văn chương Tử mà thôi”. Quách Tấn là người đã từng bênh vực việc Mộng Cầm đi lấy chồng làm cho nhà thơ Bích Khê giận ông mấy ngày. Nhưng ông vô cùng tức giận khi Mộng Cầm phủ nhận mối tình với Hàn Mặc Tử. Mộng Cầm đã nói thật hay nói dối? Vì sao nàng lại phủ nhận mối tình này? Thật ra, trong thời gian quen biết với Mộng Cầm, căn bệnh phong của chàng chưa bộc phát. Ngay cả chàng cũng không hề “cảm thấy”, làm sao Mộng Cầm có thể “nhận ra”. Rất dễ thấy rằng đó là những lời nói dối của một người con gái muốn quên quá khứ để bảo vệ hạnh phúc hiện tại. Một lý do rất thường tình và đáng thông cảm. Mối tình Hàn Mặc Tử – Mộng Cầm đã được rất nhiều người gần gũi xác nhận. Trần Thanh Mại, một người bạn của chàng đã công bố những chi tiết của mối tình này trong cuốn sách Hàn Mặc Tử xuất bản năm 1942. “Ấy là câu chuyện một đôi trai tài gái sắc yêu nhau, câu chuyện muôn đời ấy mà! Người con trai là Hàn Mặc Tử, người con gái, ta cứ theo nhà thi sĩ mà gọi là Mộng Cầm đi, mặc cái tên thực của họ. Hai bên đã thề nguyền cùng nhau những lời mà ta hiểu là thiết tha đằm thắm lắm. Thường thường thì họ hay gặp nhau ở hai tỉnh: Quy Nhơn và Phan Thiết. Họ đưa nhau đi chơi bờ bể, họ đi viếng các danh lam thắng cảnh, nhất là lầu Ông Hoàng. Rồi họ xa nhau. Họ nhớ nhau, và tặng ảnh cho nhau. Họ coi như một cặp vợ chồng chưa cưới”.

Hàn Mặc Tử đã sáng tác nhiều bài thơ đầy nước mắt về mối tình này. Trong bài Muôn năm sầu thảm, chàng đã kêu tên nàng lên một cách thảm thiết:

Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm
Nhớ thương còn một nắm xương thôi

Bài Phan Thiết, Phan Thiết, chàng nhắc tới những kỷ niệm xưa về lầu Ông Hoàng, nơi chàng và Mộng Cầm từng dạo chơi thuở nào:

Ta lang thang tìm tới chốn lầu Trăng
Lầu Ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang
Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết
Ôi trời ôi! là Phan Thiết! Phan Thiết!
Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi.

Hoàng Cúc là người liên quan đến bài thơ tình đẹp nhất trong kho tàng thơ ca Việt Nam: Bài thơ thôn Vỹ. Nàng tên thật là Hoàng Thị Kim Cúc, sinh ngày 5.12.1913, kém Hàn Mặc Tử 1 tuổi.

Cũng như Hàn Mặc Tử, nàng phải theo gia đình vào Quy Nhơn sinh sống vì cha nàng là công chức, làm việc tại Quy Nhơn. Năm 1933, Tử vào làm cho Sở Đạc điền Quy Nhơn và quen Hoàng Tùng Ngâm – em thúc bá của Hoàng Cúc. Hoàng Tùng Ngâm sống trong ngôi nhà nhỏ cạnh nhà Hoàng Cúc, anh em bè bạn thường tụ tập để chơi đùa, bình phẩm văn thơ. Hoàng Cúc khi đó cũng đang tập tành viết báo làm thơ với bút hiệu Hoàng Hoa nữ sĩ nên cũng quen biết Hàn Mặc Tử.

Với bản tính đa tình, Hàn Mặc Tử đã đem lòng si mê Hoàng Cúc. Chàng đã làm một số bài thơ tặng nàng như bài Vịnh hoa cúc, Trồng hoa cúc… Một số bài đã đến tay Hoàng Cúc qua Hoàng Tùng Ngâm. Hoàng Cúc biết rất rõ tình cảm của chàng.

Rồi Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn làm báo. Sau một thời gian, chàng về lại Quy Nhơn. Lúc này gia đình chàng đã dời đến cách nhà Hoàng Cúc chỉ vài căn. Tình xưa dậy sóng trở lại. Giờ đây, chàng đã ít nhiều bạo dạn hơn trước. Hàn Mặc Tử sáng tác bài Hồn cúc:

Bấy lâu sát ngõ chẳng ngăn tường
Không dám sờ tay sợ lấm hương
Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá
Muốn ôm hồn cúc ở trong sương

Năm 1936, Hoàng Cúc theo gia đình về Huế sinh sống. Sau đó, nàng bắt đầu ăn chay trường, trở thành cư sĩ, sống cuộc đời lặng lẽ bí ẩn. Cũng trong năm đó, Hàn Mặc Tử in tập thơ Gái quê, là tập thơ mới đầu tiên kể từ khi chàng bỏ làm thơ Đường luật. Chàng mang theo một số bản Gái quê ra Huế. Và chàng đã gặp lại Hoàng Cúc trong một dịp hội chợ nhưng không dám tặng thơ cho nàng. Chàng cũng tìm đến Vỹ Dạ – nơi ở của Hoàng Cúc – nhưng chỉ đứng ngoài cổng một lúc rồi bỏ đi.

pic
Bà Hoàng Thị Kim Cúc

Nhiều năm sau đó, giữa hai người không có liên lạc gì với nhau. Một hôm Hoàng Cúc nghe tin chàng bị bệnh phong, nàng liền gửi thư cho chàng. Và chàng đã cảm động sáng tác bài Đây thôn Vỹ Dạ gửi tặng nàng.

Chuyện tình Hoàng Cúc – Hàn Mặc Tử cũng có những điều gây tranh cãi như trường hợp Mộng Cầm. Bởi Hoàng Cúc đã có lần công khai phủ nhận chuyện nàng có tình cảm với Hàn Mặc Tử. Đó là vào năm 1969, nhà thơ Quách Tấn, người bạn thân thiết của Hàn Mặc Tử đã viết một hồi ký lấy tên là “Đôi nét về Hàn Mặc Tử” đăng trên tạp chí Văn, trong đó có phần nói đến mối quan hệ giữa Hoàng Cúc và Hàn Mặc Tử. Quách Tấn cho rằng hai người không thành duyên nợ là do thân sinh của Hoàng Cúc chê Hàn Mặc Tử không xứng. Hoàng Cúc đã đọc được hồi ký này và ngày 15.3.1971, nàng gửi thư cho Quách Tấn để “nói lại cho rõ”. Hoàng Cúc đã phản bác một số chi tiết nhỏ mà Quách Tấn nêu ra và cuối cùng nói về mối quan hệ của mình với Hàn Mặc Tử: “Hồi ấy tuy Tử ở gần nhà tôi, song Tử và tôi cách xa nhau như hai ngọn núi. Tử thì kín đáo và bẽn lẽn như con gái, còn tôi thì bí mật và xa lạ như cung trăng! Tuy thế Tử cũng đã tìm cách để gặp, nhưng vẫn chưa toại nguyện…”

Thế nhưng Quách Tấn kiên quyết bảo vệ lập trường của mình trong các chi tiết thể hiện việc Hàn Mặc Tử và Hoàng Cúc có yêu nhau: “Còn về những chi tiết trong cuộc tình duyên của Tử – Cúc, thì nhất định ký ức tôi không phản tôi, vì không có gì phức tạp khó nhớ. Việc Tử nhờ người đến dạm là việc có thật. Người ấy là nhà thầu khoán Bùi Xuân Lang ở Quy Nhơn, vừa thân với Tử, vừa quen với cụ Hoàng Phùng”.

Hiểu như thế nào về chuyện này? Theo chúng tôi, Hoàng Cúc ngày ấy là một thiếu nữ trẻ trung yêu đời, lại ít nhiều có tâm hồn văn chương thì việc đáp lại những tình cảm của một người như Hàn Mặc Tử là có thể xảy ra. Nhưng sau này cũng như Mộng Cầm, nàng đã cố gắng chôn chặt những điều thầm kín riêng tư vào cõi lòng. Là một người xa lánh cuộc đời để tìm đến cõi thiền, thì những chuyện tình cảm dù có cũng không thể phơi bày cho công chúng biết. Cho nên việc Hoàng Cúc phủ nhận chuyện có đáp lại tình cảm với Hàn Mặc Tử là điều dễ hiểu. Nguyễn Bá Tín cho biết tại nhà riêng của Hoàng Cúc, khi đã quy y, nàng vẫn “dành riêng một căn phòng ngày đêm hương hoa tụng niệm, tưởng nhớ mối tình bất diệt của anh mà cũng là tình đầu của chị”.

Mối tình Hàn Mặc Tử – Hoàng Cúc như là khói sương bảng lảng. Nàng thực sự là một nàng thơ hơn là một người tình để chàng có thêm thi hứng mà thôi.

Đây thôn Vỹ Dạ – bài thơ nhiều ẩn số

Năm 1936, Hàn Mặc Tử từ Sài Gòn trở lại Quy Nhơn. Lúc này thân phụ Hoàng Cúc về hưu nên gia đình phải dọn về Huế. Cũng trong năm đó, chàng bắt đầu phát hiện những dấu hiệu của căn bệnh phong, nhưng chàng vẫn chưa quan tâm đến nó. Một thời gian rất lâu, căn bệnh mới phát mạnh.

Năm 1939, Hoàng Cúc nhận được hung tin nói trên từ Hoàng Tùng Ngâm. Nàng chuẩn bị một số tiền định gửi cho Hàn Mặc Tử uống thuốc nhưng không dám gửi. Nàng bèn gửi cho Hàn Mặc Tử một bức ảnh chụp cảnh nàng mặc áo lụa dài trắng đứng dưới vòm cây xanh mát. Nhận được ảnh, Hàn Mặc Tử rất vui. Chàng liền làm ngay bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ gửi ra Huế cho Hoàng Cúc.

Chi tiết trên là theo Nguyễn Bá Tín. Còn theo nhiều tác giả khác thì Hoàng Cúc không gửi ảnh mình mà gửi một tấm bưu ảnh có mây nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có khóm tre, có cả ánh trăng hoặc là ánh nắng chiếu xuống. Một thời gian sau, nàng nhận được thư của Hàn Mặc Tử. Kèm theo bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ gửi tặng, Hàn Mặc Tử viết: “Túc hạ! Có nhận được bức ảnh bến Vỹ Dạ lúc hừng đông hay là một đêm trăng? Và mấy hàng chữ của túc hạ gửi thăm, muôn vàn cảm tạ. Túc hạ còn nhớ đến người năm xưa, thế là phúc phận lắm rồi. Mong ơn trên xuống độ cho túc hạ thật đầy và mong rằng một mùa xuân nào đấy sẽ gặp lại được túc hạ cho phỉ dạ. Thăm túc hạ bình an vui vẻ”.

Đây thôn Vỹ Dạ là bài thơ nhẹ nhàng nhất của Hàn Mặc Tử trong tập Thơ Điên. Bởi lúc này chàng đang trong thời kỳ bệnh tật, đau đớn điên cuồng cả thể xác lẫn tâm hồn. Thơ của chàng luôn luôn là những gào thét uất hận, nghẹn ngào. Bài thơ này, Nguyễn Bá Tín cho biết nguyên cái tựa ban đầu của nó là Ở đây thôn Vỹ Dạ. Nhưng về sau đã được biên tập lại, bỏ đi chữ Ở. Trong bài thơ, hình ảnh hàng cau được nhiều người khen ngợi, nhưng lại đem đến thắc mắc cho chính người được tặng thơ là Hoàng Cúc. Nàng đã không hiểu vì sao Hàn Mặc Tử lại viết câu thơ:

Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Thôn Vỹ Dạ, nằm bên kia Đập Đá, cư dân ở đây phần lớn thuộc tầng lớp thượng lưu. Kế thôn Vỹ Dạ là thôn Nam Phổ, một thôn bình dân, sống bằng nghề trồng cau. “Mua vôi chợ Quán chợ Cầu. Mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh”. Cau Nam Phổ nổi tiếng khắp cả nước. Hằng năm đến mùa cau, già trẻ gái trai trong làng đều có thể trèo cau, hái cau để bán. Các cô gái Nam Phổ nổi tiếng trèo cau giỏi. Vì thế có câu “Con gái Nam Phổ ở lổ trèo cau”. Những cô gái khuê các vùng Vỹ Dạ rất sợ bị xếp vào diện câu ví đó. Và vì thế ít ai chịu trồng cau ở Vỹ Dạ. Như vậy, thì vì sao Hàn Mặc Tử lại lấy hình ảnh cây cau như là một biểu tượng cho thôn Vỹ Dạ?

pic
Nhà bà Hoàng Thị Kim Cúc ở Vĩ Dạ, Huế

Bài thơ cũng tạo ra rất nhiều sự khó hiểu đối với độc giả trong các chi tiết khác. Chẳng hạn mấy câu thơ “Mơ khách đường xa, khách đường xa. Áo em trắng quá nhìn không ra” và “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh. Ai biết tình ai có đậm đà?”. Có nhiều ý kiến lý giải khác nhau, trong đó thậm chí có người cho rằng khổ thơ này chỉ những nàng kỹ nữ sông Hương như trên báo Giáo Viên Nhân Dân số tháng 1.1990. Theo ý kiến một số người, hình ảnh “áo trắng nhìn không ra” là do Hoàng Cúc mặc chiếc áo dài màu trắng mà tấm hình cũ quá nên Hàn Mặc Tử không thấy rõ. Còn “sương khói mờ nhân ảnh” thì Nguyễn Bá Tín cho rằng có thể là Hàn Mặc Tử muốn nói đến đời sống khói nhang cõi thiền của Hoàng Cúc.

Ngày tháng ra đời của bài thơ cũng gây bàn cãi. Trên Tuổi Trẻ Chủ Nhật số ra ngày 7.1.1990, tác giả Đào Quốc Toàn viết: “Bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ chỉ có thể được viết trong khoảng 1936-1937 chứ không thể viết vào năm 1939 được, bởi vì bài thơ này được Hàn Mặc Tử tập hợp lại ở tập Đau thương trong thời gian cuối 1937 đầu 1938. Tập thơ này gồm khoảng 50 bài thơ, lúc đầu lấy tên là Thơ điên”.

Đây cũng là vấn đề khó làm sáng tỏ. Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ này trong thời điểm nào? Nếu căn cứ vào trí nhớ của Hoàng Cúc thì bài thơ ra đời vào năm 1939. Trong thư gửi cho Quách Tấn vào ngày 15.10.1971, Hoàng Cúc viết: “Vào khoảng hè 1939, Ngâm viết thư về Huế cho biết Tử mắc bệnh nan y, và khuyên tôi nên viết thư thăm Tử, để an ủi một tâm hồn đã vô cùng đau khổ. Thay vì viết thư thăm, tôi gửi bức ảnh phong cảnh vừa bằng cái carte-visite. Trong ảnh có mây, có nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có mấy khóm tre, có cả ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước. Tôi viết sau tấm ảnh mấy lời hỏi thăm sức khỏe Tử mà không ký tên, rồi nhờ Ngâm trao lại. Sau đó một thời gian, tôi nhận được bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ…”.

Mai Đình – tình thơ hay tình yêu?

Mai Đình thực ra không phải là một nàng thơ, cũng không phải là một người tình của Hàn Mặc Tử… Đúng nghĩa, nàng là một người bạn văn chương của chàng. Nàng gặp Hàn Mặc Tử khi chàng đã lâm trọng bệnh, xa lánh tất cả mọi người để về ẩn mình trong một cái chòi tranh ở Gò Bồi, cách thành Quy Nhơn khoảng 15 cây số.

pic
Bà Mai Đình

Mai Đình xuất thân trong một gia đình khá giả, nhưng mang trong mình dòng máu lãng mạn, nàng theo tiếng gọi bốn phương cất bước ra đi. Nhờ có nghề dạy nữ công gia chánh cho những gia đình giàu có nên Mai Đình kiếm kế sinh nhai khá dễ dàng. Nàng đã đặt chân đến nhiều vùng đất xa xôi, có khi qua tận Nam Vang. Năm 1937, Mai Đình đến Quy Nhơn. Trước đó nàng đã nghe danh Hàn Mặc Tử từ lâu. Là một người có cá tính mạnh mẽ, nàng không câu nệ, tìm cách giáp mặt chàng. Lần đầu tiên, Hàn Mặc Tử vì tự ti bệnh tật nên không chịu tiếp. Nàng bèn vào Nha Trang, thông qua Quách Tấn để “tiếp cận” chàng. Trong hồi ký của mình, Quách Tấn nhớ lại: “Gặp tôi, nàng không chút e lệ, ngồi nói chuyện như người quen biết đã lâu. Phê bình bài thơ Gái quê xong, nàng tỏ thật nỗi lòng đối với Tử: “Biết Tử mang bệnh ngặt nghèo, lòng tôi hết sức thương cảm. Tôi mong sao chia sớt được nỗi đau khổ của Tử một đôi phần”. Rồi nàng trách Mộng Cầm sao đành lòng bỏ Tử”.

Nàng gửi cho Quách Tấn bài thơ Biết anh để tặng Hàn Mặc Tử với những câu thơ thật mạnh dạn:

Còn anh em đã gặp anh đâu!
Chỉ cảm vần thơ có những câu
Âu yếm say sưa đầy cả mộng
Xui lòng tư tưởng lúc đêm thâu

Đây là bài thơ đầu tiên mở ra một tình bạn văn chương thú vị giữa hai người. Hàn Mặc Tử nhận được thơ, liền hồi âm nhưng Mai Đình đã đi khỏi Nha Trang. Chàng buồn rầu sáng tác bài Lưu luyến:

Chửa gặp nhau mà đã biệt ly
Hồn anh theo dõi bóng em đi
Hồn anh sẽ nhập trong luồng gió
Lưu luyến bên em chẳng nói gì

Điều đặc biệt nhất trong mối quan hệ Mai Đình – Hàn Mặc Tử là nàng đã hành xử rất đúng với tinh thần văn chương: Tứ hải giai huynh đệ. Theo tài liệu của Trần Thanh Mại thì mùa hè năm 1938, Mai Đình từ biệt Quy Nhơn để vào Sài Gòn thu xếp công việc. Khi trở ra, Mai Đình đưa Hàn Mặc Tử một món tiền để lo thuốc thang và nói ý định của mình: sẽ ở lại trong cái chòi tranh cùng với chàng. Hàn Mặc Tử từ chối nhưng nàng mặc kệ, cứ ở đấy đi chợ nấu ăn, sắc thuốc cho chàng. Mai Đình không hề ngần ngại bệnh tật cũng như dư luận người đời.

Hàn Mặc Tử từ chỗ không muốn gặp mặt đến xúc động trước việc làm của Mai Đình nên đã có nhiều câu thơ tặng nàng:

Đây Mai Đình tiên nữ ở Vu Sơn
Đêm muộn xuống gieo vào muôn sóng mắt
Nàng, ôm nàng hai tay ta ghì chặt
Cả bài thơ êm mát lạ lùng thay!

Ngoài lo việc cơm nước thuốc thang cho chàng, thời gian còn lại nàng cùng chàng ngâm thơ vịnh cảnh. Hai tâm hồn thi sĩ sống bềnh bồng với những vần thơ như thế suốt một thời gian dài. Nhưng số tiền Mai Đình mang theo cũng đã hết. Nàng khuyên chàng vào bệnh viện phong Quy Hòa để điều trị, nàng sẽ đi theo và ở luôn trong ấy để chăm sóc cho chàng. Nhưng Hàn Mặc Tử từ chối. Cuối cùng hai người phải từ giã nhau. Nàng lại cất bước giang hồ bốn phương. Lâu lâu, chàng lại nhận được cánh thư của nàng từ phương trời xa nào đó. Trong một lần ngồi buồn, chàng đem những từ ngữ trong bức thư nàng gửi xếp lại thành bài thơ. Đó là bài Thao thức với những câu thơ da diết:

Lạnh quá ánh trăng không sáng mấy
Cho nên muôn dặm ở ngoài kia
Em đang mong mỏi, em đang nhớ
Bứt rứt lòng em muốn trở về

Mối tình thơ kỳ lạ giữa Mai Đình và Hàn Mặc Tử cùng với việc Mai Đình chăm sóc cho Hàn Mặc Tử được Trần Thanh Mại công bố vào năm 1942, một năm sau ngày Hàn Mặc Tử mãi mãi ra đi. Nhưng câu chuyện trên đây không được gia đình Hàn Mặc Tử thừa nhận và Quách Tấn thì cho rằng Trần Thanh Mại đã hoàn toàn bịa đặt. Tuy nhiên, những tài liệu của Trần Thanh Mại công bố đã thuyết phục được không ít người. Có người cho rằng, trước đây giữa nhà thơ Quách Tấn và nhà phê bình Trần Thanh Mại xảy ra vụ kiện bản quyền thơ Hàn Mặc Tử, liên quan trực tiếp đến cuốn sách Hàn Mặc Tử mà Trần Thanh Mại xuất bản năm 1942, xuất phát từ mâu thuẫn này mà nhà thơ Quách Tấn đã nói như vậy chăng?

Hình bóng giai nhân – nguồn sống của mạch thơ Hàn Mạc Tử

Thương Thương là một nàng thơ huyền diệu nhất của Hàn Mặc Tử. Bởi chàng không chỉ đơn thuần làm thơ về nàng như những hình bóng giai nhân khác. Trong tâm tưởng chàng, Thương Thương không phải là người của cõi trần.

Trong bài thơ Tiêu sầu, chàng đưa mình bay lên tận cung trăng để gặp “Hằng Nga Thương Thương”, trong vở kịch thơ Duyên kỳ ngộ và Cẩm châu duyên, Thương Thương là tiên nữ. Chính vì vậy, có một số tài liệu cho rằng Thương Thương không phải là người có thật mà chỉ là cái tên mượn. Trần Thị Huyền Trang, cháu nhà thơ Quách Tấn viết trong Hàn Mặc Tử – hương thơm và mật đắng: “Thương Thương không phải là một nhân vật có thật. Tất cả mọi chuyện đều do Trần Thanh Địch sắp đặt ra”.

Chúng tôi đã trực tiếp gặp nhà văn Trần Thanh Địch tại tư gia ở đường Nguyễn Đình Chính, quận Phú Nhuận, Sài Gòn để tìm hiểu về nàng thơ này. Trần Thanh Địch là một trong hai người bạn thân nhất của Hàn Mặc Tử (người kia là nhà thơ Quách Tấn). Thương Thương chính là Trần Thị Thương Thương, là con của ông Trần Thanh Đạt, anh trai hai nhà văn Trần Thanh Mại và Trần Thanh Địch. Hàn Mặc Tử cũng là bạn của Trần Tái Phùng, anh ruột Thương Thương.

Ông Địch cho biết, vào năm 1936, khi Hàn Mặc Tử ra Huế lần cuối cùng để tặng tập Gái quê cho bạn bè, thì Thương Thương chỉ mới 12 tuổi, nên Hàn Mặc Tử chẳng hề chú ý đến làm gì. Đến năm 1939, Hàn Mặc Tử đã trải qua nhiều biến cố đau buồn trong cuộc đời như người anh cả dạy chàng làm thơ năm nào qua đời, Hoàng Cúc theo gia đình về quê, Mộng Cầm bỏ đi lấy chồng, bệnh tình chàng ngày một nặng hơn. Lúc này, chàng đã sống ẩn mình, chỉ biết làm thơ. Làm được bài nào, chàng chép lại để gửi ra Huế cho Trần Thanh Địch và Trần Tái Phùng đọc.

Lúc này, tiếng tăm của chàng đã nổi như cồn. Thơ chàng làm ra được học sinh trung học chép tay chuyền nhau đọc thuộc lòng. Đặc biệt là những nữ sinh, rất thích chép và đọc thơ Hàn Mặc Tử. Trần Thị Thương Thương bấy giờ đang học trường trung học Đồng Khánh, cũng bắt đầu say mê thơ Hàn Mặc Tử.

Trần Thanh Địch kể, một hôm ông đang ngồi viết thư cho Hàn Mặc Tử thì Thương Thương đến gần, nói đại ý nếu có gửi thư cho Hàn Mặc Tử thì xin cho Thương Thương gửi lời thăm. Trần Thanh Địch khuyên Thương Thương viết một bức thư ngắn gửi kèm cho lịch sự. Thương Thương nghe lời chú, viết bức thư xã giao, nói đại ý đã đọc thơ của chàng nhiều và rất thích, nay gửi lời chúc chàng mau bình phục để sáng tác.

Nhận được thư Thương Thương, chàng hồi âm ngay. Chàng nói rất vui và sẽ có thơ gửi tặng Thương Thương. Quả nhiên chỉ vài hôm Thương Thương bắt đầu nhận được thơ chàng gửi tặng. Đó là các đoạn trích hai vở kịch thơ Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội. Chàng cũng đặt cho Thương Thương biệt danh Người lụa bến sông Hương.

Hai vở kịch thơ Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội là những sáng tác độc đáo của Hàn Mặc Tử. Trần Thanh Địch cho biết cứ vài ngày ông và Trần Tái Phùng lại nhận được một đoạn thơ từ Quy Nhơn gửi ra. Phùng đọc xong chuyển cho người anh rể vốn là giáo viên trường trung học Khải Định. Người này đem lan truyền trong các học trò của mình. Điều đặc biệt trong Duyên kỳ ngộ lẫn Quần tiên hội, tên tuổi của Thương Thương và Hàn Mặc Tử được nêu đích danh. Chẳng hạn trong Duyên kỳ ngộ, chàng viết: “Em là Trần Thương Thương/Anh là Hàn Mặc Tử/Không phải cách âm dương/Còn có khi hội ngộ”.

Thương Thương lập tức nổi tiếng theo. Giới học sinh ở Huế xôn xao. Trong một thời gian ngắn, chuyện đến tai ông Trần Thanh Đạt, thân sinh của Thương Thương. Gia đình Thương Thương là gia đình quan lại, ông nội Thương Thương làm Thừa biện Bộ Binh, ông ngoại làm Thượng thư Bộ Lễ. Ông Trần Thanh Đạt khi đó cũng đang làm Tham tri Bộ Quốc gia giáo dục, ba năm sau được thăng Thượng thư Bộ Quốc gia giáo dục. Trong một gia đình như vậy, việc Thương Thương trở thành một người nổi tiếng kiểu đó khó mà được chấp nhận. Ông Trần Thanh Đạt đã gọi anh Thương Thương là Trần Tái Phùng đến, yêu cầu tìm cách làm nguội dư luận. Trần Tái Phùng bèn viết thư gửi Hàn Mặc Tử, đề nghị chàng thôi sử dụng hình ảnh của Thương Thương trong sáng tác. Tử nhận được thư và lập tức làm theo đề nghị của bạn. Từ đó, Quần tiên hội mãi mãi bị bỏ dở dang.

Thương Thương là một nàng thơ đúng nghĩa của Hàn Mặc Tử. Không gặp mặt, không nghe tiếng. Chỉ là những tưởng tượng. Thế nhưng những sáng tác của chàng về nàng thật diệu kỳ. Về tuổi tác Thương Thương, nhiều tài liệu nói rất khác nhau. Nhưng theo nhà văn Trần Thanh Địch, khi Hàn Mặc Tử viết Quần tiên hội thì Thương Thương khoảng 15 tuổi. Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Tuyển, người đã bỏ công tìm hiểu rất kỹ về cuộc đời Hàn Mặc Tử cho biết, Thương Thương sinh ngày 8.10.1924. Như vậy là vào năm 1939, Thương Thương đã 15 tuổi chứ không phải mới 12 tuổi như một số tác giả khác.

Hàn Mặc Tử là một người đa sầu đa cảm. Gặp ai cũng đem lòng thương nhớ. Vì thế có rất nhiều hình bóng giai nhân đã đi vào thơ chàng. Ngoài Mộng Cầm, Hoàng Cúc, Mai Đình, Thương Thương là bốn người phụ nữ ảnh hưởng sâu sắc tới thơ Hàn Mặc Tử, trong từng giai đoạn còn có những người phụ nữ khác để lại dấu ấn trong thơ chàng. Đầu tiên là Ngọc Sương. Nàng là chị ruột của Bích Khê, bạn Hàn Mặc Tử, đồng thời là dì ruột của Mộng Cầm. Nguyên khi Mộng Cầm đi lấy chồng, Bích Khê thấy bạn buồn quá bèn tặng tấm hình của hai chị em cho Hàn Mặc Tử và giới thiệu đôi chút về Ngọc Sương. Do đó mà Ngọc Sương cũng đã đi vào thơ Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên Ngọc Sương không hề có mối giao lưu nào với Hàn Mặc Tử dù qua thư từ. Mãi đến khi Bích Khê mất vào năm 1946, Ngọc Sương soạn lại di cảo của em mới biết rõ một số bài thơ Hàn Mặc Tử viết về mình.

Một người nữa là Thanh Huy. Nàng tên thật là Võ Thị Thu Huy, là chị vợ nhà văn Trần Thanh Địch, khi đó đang sinh sống ở Phan Thiết. Cũng như Ngọc Sương, Thanh Huy chỉ làm quen qua thư chứ chưa gặp mặt Hàn Mặc Tử. Đó là lúc chàng đã phát bệnh nặng. Thanh Huy cũng đang tập tành làm thơ, được Bích Khê khuyên nên viết thư động viên Hàn Mặc Tử. Vì thế một hôm Tử đang chán nản buồn phiền thì có bức thư bỏ trong phong bì màu xanh của Thanh Huy gửi đến. Lập tức chàng sáng tác bài Bức thư xanh:

Thanh Huy hỡi nàng chưa là châu báu
Cớ làm sao phước lộc chảy ra thơ
Duyên làm sao cho Trí đến dại khờ
Mắt mờ lệ ở sau hàng chữ gấm
Ta đã nuốt và hình như đã cắn
Cả lời thơ cho vãi máu nàng ra

Bài thơ viết một cách dữ dội, Thanh Huy đọc và thôi không liên lạc với Tử nữa vì khiếp đảm.

Mỹ Thiện cũng là một nàng thơ để lại dấu ấn mạnh trong thơ Hàn Mặc Tử. Nàng người gốc Huế, ở cạnh nhà Hàn Mặc Tử tại thành phố Quy Nhơn. Nàng sống với cha và bà mẹ kế xấp xỉ tuổi nàng. Mỹ Thiện rất giỏi âm nhạc dân tộc, nổi tiếng là một cây đàn tỳ bà tài hoa, đặc biệt có thể chơi đủ năm cây đàn tranh, nhị, nguyệt, bầu, tỳ bà. Những đêm khuya, nàng thường dạo đàn tranh réo rắt. Hàn Mặc Tử chưa một lần gặp mặt Mỹ Thiện nhưng chàng bị ám ảnh bởi tiếng đàn. Ở thành phố Quy Nhơn dạo ấy, không chỉ riêng Hàn Mặc Tử mà nhiều chàng trai khác cũng mơ tưởng đến người ngọc. Khi bệnh tình càng nặng, tiếng đàn Mỹ Thiện càng làm cho chàng khó ngủ.

Mỹ Thiện không thoát khỏi hồng nhan bạc phận. Sống với người mẹ kế, nàng thường xuyên chịu đựng những ganh ghét. Một ngày kia nàng đã kết liễu đời mình bằng mười viên thuốc ngủ Véronal. Cái chết của Mỹ Thiện đánh tan mọi ngờ vực của những người ác ý và bà mẹ kế, là nàng đã hoang thai. Các bác sĩ đã công bố nàng vẫn còn là cô gái trinh tiết. Ngay lập tức Hàn Mặc Tử vào buồng đóng cửa lại và bài Cô gái đồng trinh ra đời tức khắc:

Đêm qua trăng vướng trên cành trúc
Cô láng giềng bên chết thiệt rồi
Trinh tiết vẫn còn nguyên vẹn mới
Chưa hề âu yếm ở đầu môi
Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc
Cả một mùa xuân đã hiện hình.

Hình bóng Mỹ Thiện từ đó còn trở lại nhiều lần trong thơ chàng. Nguyễn Bá Tín em chàng kể lại: “Cô gái đồng trinh từ đó trở thành một hiện tượng kỳ lạ, một nàng thơ dẫn dắt anh vào những nhớ thương bàng bạc bâng quơ, hoặc hòa nhập vào những lời thơ quằn quại xót xa mà cuộc đời nàng đã đi qua ngắn ngủi…”

Hàn Mặc Tử đã sáng tác được 5 tập thơ, trong đó Lệ Thanh thi tập là tập thơ đầu tiên. Trong tập này bài Buồn thu có những câu khá hay: “Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt/Cảnh sắp về đông mắt sẽ vơi”. Đây là bài thơ liên quan đến một người phụ nữ: đó là cô Trà. Nàng là người về bên ngoại của Hàn Mặc Tử nhưng không bà con. Chàng đã gặp nàng vào cái thời còn rất trẻ, tính tình khi ấy hết sức nhút nhát. Nàng chờ chàng ngỏ lời nhưng mãi không thấy chàng lên tiếng. Mà con gái Huế thời ấy luôn lấy chồng sớm. Chàng chưa nói được gì thì nàng đã sang sông. Sực tỉnh, chàng làm bài Buồn thu với nhiều tiếc nuối. Đây có thể coi là hình bóng người phụ nữ đầu tiên đi vào thơ chàng…

No comments :

Post a Comment


 Tục ngữ & Thành ngữ

 Nghệ Thuật Sống